Thời gian gần đây diễn ra liên tục các vụ người trẻ tuổi tự sát, trong đó có cả học sinh. Nhiều nguyên nhân được tiết lộ là do thua lỗ, nợ nần hoặc do áp lực từ học tập.
Tự sát là một vấn đề nghiêm trọng trên thế giới và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Theo số liệu từ Bộ Y tế, mỗi năm có khoảng 40,000 người tự sát tại Việt Nam. Trong đó, một tỷ lệ đáng kể là học sinh và thanh niên. Nguyên nhân tự sát ở nhóm này thường liên quan đến áp lực học tập, mối quan hệ xã hội và nợ nần, cá độ bóng đá.
Áp lực học tập là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tự sát ở học sinh. Nhiều em cảm thấy quá tải với khối lượng bài vở, kỳ vọng từ gia đình và xã hội. Đã có nhiều trường hợp học sinh nhảy cầu vì không chịu nổi áp lực này. Theo thống kê từ Viện Nghiên cứu tâm lý học đường, tỷ lệ tự sát trong nhóm học sinh trung học phổ thông chiếm khoảng 20% tổng số ca tự sát hằng năm.
Cá độ bóng đá cũng là một nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tự sát. Nhiều người, đặc biệt là thanh niên, sa vào cá độ và vướng nợ nần chồng chất. Khi không có khả năng chi trả, họ tìm đến tự sát như một lối thoát. Theo thống kê từ Cục Phòng chống tệ nạn xã hội, có khoảng 15% ca tự sát hàng năm liên quan đến cá độ bóng đá.
TS.BS Trần Thị Hồng Thu, Phó Giám đốc Bệnh viện Tâm thần ban ngày Mai Hương (Hà Nội) nhận định, một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc lượng người tự sát tăng cao là các vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm thần, đặc biệt là trầm cảm, lo âu kéo dài.
Người mắc các vấn đề này thường cảm thấy tuyệt vọng, mất đi hy vọng vào tương lai và tin rằng cuộc sống không còn ý nghĩa. Sự cô lập xã hội và thiếu sự hỗ trợ từ gia đình và bạn bè cũng góp phần làm gia tăng nguy cơ tự sát.
Do đó, dấu hiệu cảnh báo như mất ngủ, lo âu, trầm cảm, và sự thay đổi hành vi cần được nhận biết sớm để có biện pháp can thiệp kịp thời. Sự can thiệp kịp thời từ gia đình và bạn bè, cùng với sự trợ giúp của các chuyên gia tâm lý, có thể giúp ngăn chặn những hành vi tự sát do áp lực tâm lý.
Tuy nhiên vị chuyên gia cho rằng sức khỏe tâm thần chưa được chú trọng đúng mức tại Việt Nam. Nhiều người vẫn còn coi nhẹ, dẫn đến việc không nhận được sự hỗ trợ kịp thời.
Theo bà Thu, nhiều người vẫn coi những bệnh lý này là biểu hiện của sự yếu đuối hoặc thiếu ý chí, dẫn đến sự kỳ thị và phân biệt đối xử đối với những người mắc bệnh. Điều này khiến họ ngại ngùng, không dám thừa nhận và tìm kiếm sự giúp đỡ. Tuy nhiên có đến 30% dân số việt Nam có các bệnh lý về tâm thần, trong đó tỷ lệ trầm cảm chiếm 25%.
Trong khi đó, số lượng bác sĩ tâm thần tại Việt Nam hiện còn rất hạn chế. Theo số liệu từ Bộ Y tế, cả nước hiện có 605 bác sĩ tâm thần, đạt 0,62 bác sĩ/100.000 dân, trong khi chỉ số trung bình toàn cầu là 1,7, còn các nước thu nhập cao là 8,6. Điều này tạo ra một khoảng cách lớn giữa nhu cầu và khả năng cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần.
Bác sĩ Thu cảnh báo chúng ta đang thiếu hụt nghiêm trọng đội ngũ bác sĩ tâm thần. Điều này dẫn đến việc nhiều bệnh nhân không được điều trị kịp thời và hiệu quả, dẫn đến trầm cảm từ đó làm tăng nguy cơ tự sát.
Đồng thời, ngân sách dành cho các chương trình hỗ trợ tâm lý cũng thường không đủ, dẫn đến sự hạn chế trong việc triển khai các biện pháp phòng ngừa và điều trị hiệu quả.
Cuối cùng, văn hóa và phong tục của nhiều nơi vẫn còn coi nhẹ các vấn đề tâm thần. Ở nhiều gia đình và cộng đồng, sức khỏe tâm thần không được xem là một phần quan trọng của sức khỏe tổng thể, dẫn đến việc thiếu sự quan tâm và hỗ trợ cần thiết.
Việc thay đổi quan niệm và nâng cao nhận thức về sức khỏe tâm thần cần có thời gian và sự nỗ lực từ nhiều phía, bao gồm cả gia đình, trường học, cơ quan y tế và toàn xã hội. Bệnh tâm thần cũng là một loại bệnh và người có vấn đề tâm thần vẫn là một con người, họ có thể hoà nhập cuộc sống nếu được quan tâm giúp đỡ và điều trị đúng cách.