Định hướng chiến lược phát triển ngành nông nghiệp và môi trường

PGS.TS Nguyễn Đình Thọ | 14/11/2025, 08:55

Ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ, hướng tới phát triển xanh, tuần hoàn và bền vững. Với định hướng chiến lược rõ ràng, ngành đặt mục tiêu không chỉ bảo đảm an ninh lương thực mà còn trở thành động lực quan trọng trong tiến trình tăng trưởng xanh và phát triển kinh tế quốc gia.

Lịch sử 80 năm ngành nông nghiệp và môi trường Việt Nam

Lịch sử 80 năm ngành nông nghiệp và môi trường gắn liền với cách mạng độc lập dân tộc và quá trình phát triển của Việt Nam, chuyển đổi từ nền nông nghiệp lạc hậu sang sản xuất, chế biến nông nghiệp hiện đại phục vụ sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu với những thay đổi căn bản trong thể chế quản lý môi trường, tài nguyên của đất nước, đặc biệt là chế độ quản lý sử dụng đất. Hệ thống địa chính đầu tiên được hình thành dưới triều Lê vào năm 1490, với mục tiêu quản lý ruộng đất phục vụ thuế nông nghiệp, tạo nền tảng pháp lý cho quyền sở hữu và sử dụng đất đai. Bộ luật Hồng Đức với 59 điều về quản lý ruộng đất đặt nền móng cho quản lý tài nguyên nông nghiệp, đảm bảo công bằng thuế khóa, duy trì trật tự sản xuất và bảo vệ lợi ích của nhà nước. Đến thời Nguyễn, Bộ luật Gia Long ra đời, quy định chi tiết các quan hệ dân sự và hành chính trong lĩnh vực đất đai, phát triển về tư duy lập pháp và quản trị đất đai trên cơ sở kế thừa. Thống kê của triều Minh Mạng cho thấy tỉ lệ ruộng tư chiếm gần 83% diện tích thực canh, tập trung ruộng đất trong tay địa chủ và giai tầng thống trị, tạo ra khoảng cách xã hội lớn trong nông thôn Việt Nam trước thời kỳ hiện đại. Người Pháp đặt ách đô hộ, tổ chức lại hệ thống quản lý ruộng đất bằng việc lập bản đồ địa chính có tọa độ, tạo nền tảng cho hệ thống địa chính hiện đại ở Việt Nam. Mục tiêu chính là thu thuế nông nghiệp hiệu quả và kiểm soát thị trường đất đai tại đô thị nhằm bóc lột thuộc địa. Hệ thống đăng ký hồ sơ đất đai được áp dụng cho vùng nông thôn và hệ thống đăng ký quyền sở hữu được áp dụng cho vùng thành thị đã đặt nền tảng kỹ thuật cho quản lý đất đai hiện đại, dù động cơ xuất phát từ mục tiêu khai thác thuộc địa. Đất đai luôn được xem như tài sản chiến lược, vừa là nguồn lực kinh tế, vừa là yếu tố chính trị trong kiểm soát xã hội.

Sau năm 1945, khi nền độc lập được giành lại, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã khôi phục hệ thống quản lý đất đai và đặt ra định hướng mới dựa trên quyền lợi của người dân. Sắc lệnh số 41 năm 1945 đã tiếp nhận và sắp xếp lại toàn bộ cơ quan địa chính, thuế và quản thủ điền thổ, đặt dưới quyền quản lý của Bộ Tài chính. Hệ thống pháp luật về đất đai được xây dựng từng bước, hướng đến khôi phục sản xuất, giảm gánh nặng thuế khóa, xóa bỏ bất bình đẳng ruộng đất. Các văn bản như Nghị định miễn giảm thuế điền, quy định cho mượn đất giồng màu, hay sắc lệnh bãi bỏ thuế thổ trạch đã thể hiện định hướng cải thiện đời sống nông dân. Chính sách đất đai được xác lập như một trụ cột quản lý nhà nước, thể hiện ý chí phục vụ dân sinh, khẳng định tầm nhìn dài hạn của lãnh đạo trong việc gắn kết đất đai với an sinh xã hội và phát triển kinh tế nông thôn.

Từ năm 1945 đến 1986, quá trình phát triển của ngành nông nghiệp gắn liền với tiến bộ trong quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, môi trường, đất đai tiết kiệm, hiệu quả trong điều kiện chiến tranh và khủng hoảng. Đất nước non trẻ phải đối diện nạn đói. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt mục tiêu “chống giặc đói” song hành với “chống giặc ngoại xâm”. Phong trào tăng gia sản xuất và vận động “hũ gạo cứu đói” trở thành biểu tượng cho tinh thần tự lực của nhân dân. Nông dân là lực lượng sản xuất chính và là trụ cột tinh thần của quốc gia trong giai đoạn kháng chiến. Chính sách nông nghiệp, quản lý tài nguyên thiên nhiên, môi trường gắn với dân sinh, sử dụng nguồn lực đất đai để khôi phục kinh tế, củng cố hậu cần cho chiến tranh, và bảo đảm nền tảng xã hội của chế độ mới.

Cải cách ruộng đất từ năm 1953 đến 1956 là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử nông nghiệp, thực hiện công bằng xã hội thông qua tái phân phối ruộng đất cho nông dân, chấm dứt chế độ chiếm hữu phong kiến, tạo ra chuyển biến sâu sắc trong cấu trúc kinh tế nông thôn, xác lập mô hình sản xuất tập thể, đồng thời củng cố quyền lực nhà nước ở nông thôn. Mặc dù còn nhiều thiếu sót trong quá trình thực hiện, không thể phủ nhận ý nghĩa lịch sử của cách mạng cải cách ruộng đất, nền tảng cho chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và tạo điều kiện để nông nghiệp trở thành trụ cột cho phát triển xã hội ở miền Bắc. Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, nông nghiệp đóng vai trò hậu cần chiến lược, đảm bảo lương thực và nhân lực cho tiền tuyến, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, thể hiện tinh thần kiên cường và tinh thần đoàn kết của nông dân Việt Nam. Ở mỗi làng quê, ruộng đồng vừa là nơi sản xuất, vừa là tuyến phòng thủ, vừa là hậu phương vững chắc. Mối quan hệ giữa người nông dân và đất đai trở nên thiêng liêng, gắn bó với ý chí độc lập dân tộc.

Sau năm 1975, đất nước thống nhất nhưng phải đối mặt với kiệt quệ kinh tế. Chính sách quản lý tập trung trong nông nghiệp bước đầu có tác dụng huy động nguồn lực, song dần bộc lộ hạn chế khi kìm hãm năng suất và sáng kiến của người dân. Các hợp tác xã, nông, lâm trường quốc doanh ra đời nhằm tập trung hóa sản xuất, song chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Thiếu lương thực trở thành vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng đến ổn định xã hội và đời sống nhân dân. Trong bối cảnh đó, những sáng kiến từ cơ sở bắt đầu xuất hiện, thể hiện nhu cầu đổi mới mô hình quản lý. Chỉ thị 100 năm 1981 đánh dấu một cột mốc quan trọng, khi cơ chế “khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động” được áp dụng, giải phóng năng lực sản xuất, khuyến khích người dân gắn bó với đất đai, mở đường cho công cuộc đổi mới toàn diện, là minh chứng rõ rệt cho mối quan hệ giữa thể chế và phát triển, thay đổi phương thức quản lý đất đai đã cởi trói cho lĩnh vực nông nghiệp, tạo động lực, đột phá trong tăng trưởng, phát triển kinh tế, xã hội bền vững.

Từ khi quản lý đất đai, địa chính ra đời đến cải cách ruộng đất, từ thời kỳ tập trung bao cấp đến khởi đầu đổi mới, ngành nông nghiệp và môi trường Việt Nam đã chứng minh vai trò nền tảng trong quá trình hình thành quốc gia hiện đại. Mỗi chính sách đất đai đều phản ánh tầm nhìn của nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn, môi trường, và phát triển xã hội. Trải qua 80 năm, ngành nông nghiệp đảm bảo an ninh lương thực, góp phần bảo vệ môi trường, duy trì cân bằng sinh thái, và mở đường cho phát triển bền vững. Lịch sử 80 năm phát triển ngành nông nghiệp và môi trường là tấm gương cho quá trình hội nhập và chuyển đổi xanh trong hiện tại, nơi đất đai, con người và thiên nhiên tiếp tục gắn bó trong hành trình kiến tạo tương lai.

Ngành nông nghiệp và môi trường và 40 năm đổi mới của đất nước

Đại hội VI của Đảng vào năm 1986 đã đánh dấu khởi đầu cho một thời kỳ đổi mới toàn diện, tạo bước ngoặt lớn cho phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường, tiên phong là lĩnh vực nông nghiệp. Luật đất đai đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua lần đầu tiên ngày 29/12/ 1987, là văn bản luật đầu tiên điều chỉnh quan hệ đất đai, làm thay đổi quan hệ sở hữu theo chế độ tập thể hoá và quốc doanh hoá trước đây, giao đất ổn định lâu dài cho các hộ nông dân, cho các nông trường, lâm trường và cá nhân, khuyến khích kinh tế tư nhân trong lĩnh vực khai thác sử dụng đất, đồng thời bảo vệ quyền sở hữu của Nhà nước đối với đất đai. Tinh thần đổi mới được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 10-NQ/TƯ ngày 5.4.1988, được xem là dấu mốc quan trọng mở ra một giai đoạn phát triển mới. Chính sách “Khoán 10” công nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, trao cho họ quyền làm chủ trên mảnh đất canh tác, thay đổi tận gốc cơ chế quản lý sản xuất nông nghiệp. Đất đai từ chỗ thuộc quyền kiểm soát tập thể đã được giao cho từng hộ sử dụng ổn định, lâu dài, tạo niềm tin và động lực để người nông dân đầu tư sản xuất. Khi rào cản “ngăn sông, cấm chợ” bị dỡ bỏ, dòng chảy hàng hóa nông sản được khai thông, thị trường nội địa hồi sinh, đời sống nông thôn thay đổi nhanh chóng. Luật đất đai năm 1993 lần đầu tiên ghi nhận quyền sử dụng đất như một loại tài sản có giá trị kinh tế, cho phép người dân chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp. Quyền lợi gắn với đất đai đã tạo ra sức bật mạnh mẽ cho sản xuất, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp trong nông thôn. Kết quả thể hiện rõ rệt khi Việt Nam nhanh chóng vươn từ nước thiếu ăn trở thành nước xuất khẩu gạo chỉ sau một năm áp dụng Khoán 10. Năm 1989, sản lượng gạo xuất khẩu đạt 1,37 triệu tấn, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Đại hội VIII của Đảng năm 1996 xác định rõ định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, mở đường cho quá trình phát triển nông nghiệp hàng hóa lớn. Chính sách nông nghiệp và môi trường tập trung vào quản lý đất đai, bảo vệ tài nguyên, thiên nhiên, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đẩy mạnh cơ giới hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu. Đại hội IX năm 2001 tiếp tục khẳng định mục tiêu đó và nhấn mạnh yếu tố bảo vệ môi trường sinh thái như nền tảng của phát triển bền vững, cho thấy bước tiến quan trọng khi Nhà nước bắt đầu nhìn nhận mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế nông nghiệp với bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Quá trình chuyển đổi từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa quy mô lớn đã làm thay đổi căn bản diện mạo nông thôn Việt Nam.

Bước sang thế kỷ XXI, ngành nông nghiệp và môi trường Việt Nam phải đối mặt với những yêu cầu phát triển mới, đòi hỏi tầm nhìn chiến lược toàn diện hơn. Nghị quyết số 26-NQ/TW năm 2008 về “Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn” ra đời, trở thành trụ cột chính sách mới, tạo nên làn sóng chuyển mình sâu rộng. Nghị quyết khẳng định nông dân là chủ thể trung tâm của phát triển nông thôn, nông nghiệp là nền tảng của nền kinh tế, nông thôn là không gian phát triển lâu dài của đất nước. Chính sách “Tam Nông” ra đời đã mở đường cho các chương trình hành động cụ thể, hướng đến mục tiêu nâng cao đời sống nông dân, hiện đại hóa nông thôn và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Chương trình Mục tiêu Quốc gia Xây dựng Nông thôn mới được thí điểm và triển khai từ năm 2009 đã tạo ra thay đổi sâu sắc trên khắp các vùng quê. Hệ thống hạ tầng nông thôn được đầu tư mạnh, từ đường giao thông, trường học, trạm y tế đến điện, nước sạch. Đời sống văn hóa, thu nhập và chất lượng dịch vụ được cải thiện đáng kể. Tính đến giữa năm 2025, hơn 79,3% số xã trên cả nước đạt chuẩn Nông thôn mới, thể hiện nỗ lực to lớn trong suốt hơn mười lăm năm. Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp được ban hành theo Quyết định 899/QĐ-TTg năm 2013 đã định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng, lấy hiệu quả và giá trị gia tăng làm thước đo, thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới tổ chức sản xuất và thị trường.

Tinh thần phát triển xanh được nhấn mạnh mạnh mẽ hơn qua Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh ban hành năm 2021 và Nghị quyết 19-NQ/TW năm 2022, hướng đến nền nông nghiệp có hàm lượng tri thức cao, ít phát thải, thích ứng với biến đổi khí hậu. Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu nông sản lớn, giữ vị trí hàng đầu thế giới về hạt điều, đứng thứ hai về gạo và cà phê. Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng dựa trên khai thác tài nguyên, mở rộng diện tích và tăng sản lượng đã bộc lộ giới hạn. Ô nhiễm môi trường gia tăng, nguồn nước suy giảm, biến đổi khí hậu gây tổn hại nặng nề đến đồng bằng và vùng ven biển. Lực lượng lao động trẻ rời bỏ nông thôn, trong khi thu nhập của nông dân vẫn thấp nhất trong cơ cấu kinh tế. Những thách thức ấy cho thấy cần một hướng đi mới mang tính thể chế, vượt lên trên cách quản lý phân tán truyền thống.

Định hướng chiến lược phát triển ngành nông nghiệp và môi trường trong kỷ nguyên xanh

Quan điểm phát triển quốc gia trong giai đoạn tới được xác định trên cơ sở nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa kinh tế, xã hội và môi trường. Mọi quyết sách phát triển đều phải đặt trong giới hạn sinh thái, coi môi trường là trụ cột cấu thành nền tảng phát triển bền vững, hướng tới mục tiêu hình thành mô hình tăng trưởng dựa trên đổi mới, sáng tạo và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Khi kinh tế và xã hội cùng vận hành trong giới hạn của hệ sinh thái, năng lực chống chịu của quốc gia trước biến động toàn cầu sẽ được nâng cao. Mỗi ngành, mỗi địa phương cần chuyển đổi phương thức phát triển theo hướng thân thiện với thiên nhiên, gắn kết hài hòa lợi ích con người với cân bằng sinh thái.

Phát triển kinh tế gắn với môi trường được coi là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thịnh vượng lâu dài. Chính sách kinh tế hướng tới tăng trưởng, song song với nâng cao chất lượng, tạo ra giá trị bền vững. Thị trường năng lượng, quyền sử dụng đất, khoáng sản được khuyến khích vận hành theo cơ chế minh bạch, phản ánh đúng giá trị tài nguyên và chi phí môi trường. Thị trường tín chỉ carbon cần trở thành công cụ quan trọng để điều tiết phát thải, mở ra hướng phát triển mới cho ngành công nghiệp xanh. Hoạt động kinh tế được định giá trên cơ sở phát thải, động lực giảm khí nhà kính sẽ trở nên cụ thể, tạo nền tảng cho nền kinh tế carbon thấp.

Chuyển đổi xanh là trọng tâm của tiến trình phát triển. Nhà nước huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư vào công nghệ sạch, năng lượng tái tạo và sản xuất thân thiện môi trường. Mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050 được cụ thể hóa bằng các chương trình hành động trong từng lĩnh vực. Mỗi doanh nghiệp, mỗi cộng đồng dân cư đều cần được khuyến khích tham gia. Chuyển đổi xanh là xu thế chủ đạo giúp hệ thống sản xuất và tiêu dùng sẽ được tái cấu trúc theo hướng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên. Phát triển kinh tế số gắn liền với kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn mở ra không gian mới cho đổi mới mô hình quản lý. Dữ liệu trở thành nguồn lực chiến lược giúp nâng cao năng suất và tối ưu hóa sử dụng tài nguyên. Cơ sở dữ liệu về đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, đa dạng sinh học được xây dựng thống nhất, phục vụ cho công tác quy hoạch, giám sát và ra quyết định. Nguồn thông tin được tích hợp trong cơ sở dữ liệu quốc gia giúp tăng khả năng dự báo và hiệu quả quản lý, điều hành, góp phần hạn chế lãng phí, bảo vệ, chống suy thoái môi trường.

Hoàn thiện thể chế xanh là nền tảng cho mọi hoạt động phát triển. Hệ thống pháp luật về tài nguyên, môi trường, đa dạng sinh học cần được rà soát và điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh mới. Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành phải được tổ chức theo hướng đồng bộ, tránh chồng chéo. Quy hoạch tổng hợp theo phương pháp tiếp cận cảnh quan về tài nguyên, môi trường phải dựa trên nguyên tắc sử dụng tiết kiệm, bảo đảm lợi ích liên ngành và lợi ích thế hệ tương lai. Chính sách tài chính xanh, thuế môi trường, tín dụng xanh cần được vận hành hiệu quả để định hướng thị trường theo hướng bền vững.

Quản lý, giám sát và xử lý vi phạm trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường được xem là nhiệm vụ then chốt. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi xâm hại môi trường phải được thực hiện kiên quyết, minh bạch. Cơ chế giám sát cộng đồng cần được phát huy, tạo điều kiện để người dân tham gia bảo vệ môi trường nơi sinh sống. Khi kỷ cương pháp luật được củng cố, niềm tin xã hội đối với chính sách môi trường sẽ được tăng cường, góp phần thúc đẩy ý thức trách nhiệm của mọi thành phần trong xã hội. Sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn phát triển mới. Nguồn nước, đất đai, khoáng sản, năng lượng phải được khai thác trong giới hạn hợp lý, bảo đảm tái tạo lâu dài. Đối với tài nguyên biển và đất hiếm, cần áp dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao giá trị sử dụng, giảm thiểu thất thoát. Hoạt động khai thác phải gắn với phục hồi môi trường, không để lại hệ lụy cho thế hệ mai sau.

Ứng phó với biến đổi khí hậu được coi là yếu tố sống còn trong phát triển quốc gia. Việt Nam cần tiếp tục củng cố năng lực dự báo khí tượng, thủy văn và cảnh báo thiên tai. Các công trình phòng chống lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn phải được quy hoạch theo tiêu chuẩn mới, thích ứng với biến động khí hậu cực đoan. Di dời dân cư khỏi vùng rủi ro cao cần gắn liền với chính sách sinh kế bền vững. Các vùng ven biển, đồng bằng, miền núi cần có chương trình riêng nhằm giảm tổn thương và nâng cao khả năng chống chịu của cộng đồng. Bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái là nhiệm vụ trọng tâm để duy trì cân bằng tự nhiên. Các khu rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển phải được bảo vệ nghiêm ngặt. Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng cần được mở rộng để tạo nguồn tài chính ổn định cho bảo tồn. Hệ sinh thái đất ngập nước, rạn san hô, thảm cỏ biển là tài sản sinh học quý giá, cần được phục hồi thông qua các chương trình liên kết giữa nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Công tác quản lý động vật hoang dã, ngăn chặn săn bắt và buôn bán trái phép phải được duy trì thường xuyên, góp phần giữ gìn đa dạng sinh học.

Xử lý ô nhiễm môi trường đô thị và làng nghề là thách thức lớn trong tiến trình công nghiệp hóa. Các nguồn thải công nghiệp, khí thải giao thông, chất thải rắn sinh hoạt cần được kiểm soát bằng công nghệ hiện đại. Hệ thống xử lý nước thải ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị lớn phải đạt tiêu chuẩn cao hơn, giảm thiểu tác động đến không khí và nguồn nước. Mô hình phân loại rác tại nguồn, tái chế chất thải và sản xuất năng lượng từ rác cần được nhân rộng. Các khu công nghiệp phải xây dựng hạ tầng xử lý chất thải đồng bộ, gắn với cơ chế giám sát liên tục.

Chính sách phát triển biển gắn với bảo tồn tài nguyên được đẩy mạnh nhằm khai thác hợp lý tiềm năng kinh tế biển. Tăng diện tích các khu bảo tồn biển lên tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia là mục tiêu cụ thể. Kinh tế biển xanh, du lịch sinh thái biển, nuôi trồng thủy sản công nghệ cao sẽ là hướng đi chủ đạo, tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng ven biển. Việc quản lý tổng hợp vùng bờ, kiểm soát nguồn thải từ đất liền ra biển và ứng phó sự cố tràn dầu cần được triển khai đồng bộ. Giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng là yếu tố nền tảng trong chiến lược bảo vệ môi trường. Khi người dân hiểu rõ mối quan hệ giữa hành vi tiêu dùng và tác động sinh thái, hành động bảo vệ môi trường sẽ trở thành thói quen. Trường học, cơ quan, doanh nghiệp cần tích hợp nội dung giáo dục xanh trong chương trình và hoạt động thường nhật. Việc lan tỏa lối sống xanh, tiết kiệm năng lượng, hạn chế rác thải nhựa sẽ tạo chuyển biến tích cực trong cộng đồng. Hợp tác quốc tế giữ vai trò quan trọng trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Việt Nam cần tích cực tham gia vào các sáng kiến khu vực về giảm phát thải, bảo tồn đa dạng sinh học và sử dụng bền vững nguồn nước. Các hiệp định song phương, đa phương về môi trường sẽ tạo cơ hội tiếp cận công nghệ mới, nguồn vốn xanh và kinh nghiệm quản trị tiên tiến. Chia sẻ dữ liệu và đồng bộ hệ thống đo đạc, báo cáo phát thải với các quốc gia trong khu vực sẽ giúp tăng cường minh bạch, nâng cao vị thế của Việt Nam trong tiến trình thực hiện các cam kết toàn cầu.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, cần đẩy mạnh sản xuất sinh thái, sử dụng phân bón hữu cơ và công nghệ tiết kiệm nước. Từng vùng kinh tế cần có mô hình quản lý tài nguyên phù hợp điều kiện tự nhiên và dân cư địa phương. Tư duy phát triển ngành nông nghiệp và môi trường Việt Nam được định hình trên nền tảng của ba trụ cột mới: nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn và nông nghiệp các-bon thấp, là hướng đi thể hiện một tầm nhìn chiến lược mang tính chuyển đổi sâu sắc, phản ánh yêu cầu cấp bách của thời đại trong việc cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Bộ Nông nghiệp và Môi trường (MAE) được giao trọng trách hướng ngành nông nghiệp Việt Nam đến một mô hình phát triển bền vững, thích ứng cao và có khả năng đóng góp thiết thực vào các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính.

Nông nghiệp xanh nhấn mạnh đến mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên, khẳng định rằng năng suất và lợi nhuận không thể là thước đo duy nhất của thành công. Giá trị sinh thái, khả năng tái tạo và tính bền vững của hệ thống sản xuất cần được đặt ngang hàng với các yếu tố kinh tế. Nghị quyết 19-NQ/TW năm 2022 đã tạo ra nền tảng chính trị cho sự thay đổi, xác lập mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. Triết lý đó được hiện thực hóa bằng các chính sách cụ thể về chuyển đổi mô hình tăng trưởng, dựa trên cơ chế sử dụng hiệu quả tài nguyên, đổi mới công nghệ và tăng cường khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu. Kinh tế tuần hoàn là công cụ để hiện thực hóa triết lý Nông nghiệp Xanh. Trong bối cảnh lượng phế phụ phẩm nông nghiệp của Việt Nam lên tới hàng trăm triệu tấn mỗi năm, việc xem đây là nguồn tài nguyên thứ cấp đã mở ra hướng phát triển mới cho toàn ngành. Những mô hình tận dụng chất thải chăn nuôi làm khí sinh học, tái chế vỏ tôm, mỡ cá, rơm rạ hay trấu thành sản phẩm có giá trị cao đang chứng minh tính khả thi và hiệu quả kinh tế rõ rệt. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã và địa phương đã chủ động áp dụng mô hình tuần hoàn trong chuỗi sản xuất. Các chính sách của Chính phủ, như Quyết định 687/QĐ-TTg và Quyết định 222/QĐ-TTg, tạo hành lang pháp lý cần thiết để mở rộng quy mô và thu hút đầu tư. Nông nghiệp các-bon thấp là kết quả hướng tới của toàn bộ quá trình chuyển đổi, là trụ cột thể hiện cam kết rõ ràng của Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp là minh chứng cụ thể. Để dự án đạt hiệu quả, hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định phát thải (MRV) đang được triển khai, nhằm đảm bảo minh bạch và tính khoa học trong lượng hóa kết quả giảm phát thải. Cấu trúc MRV phục vụ cho việc kiểm chứng nỗ lực quốc gia, mở ra cơ hội thương mại hóa tín chỉ các-bon, mang lại lợi ích kinh tế cho nông dân.

Chuyển đổi số giữ vai trò trung tâm trong việc vận hành chiến lược. Cơ sở dữ liệu đất đai, thông tin địa lý và hệ thống viễn thám được khai thác để đánh giá tài nguyên, quy hoạch vùng sản xuất thích ứng và giám sát phát thải. Nền tảng số đang dần bao phủ các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, tạo ra một hệ sinh thái dữ liệu thống nhất cho quản lý nông nghiệp hiện đại. Từ cấp mã số vùng trồng đến hệ thống truy xuất nguồn gốc, tất cả đều hướng tới mục tiêu quản lý dựa trên dữ liệu và minh bạch hóa chuỗi giá trị nông sản. Công nghệ chỉ có thể phát huy hiệu quả khi gắn liền với con người. Người nông dân ngày nay là người sản xuất, là người quản lý hệ sinh thái. Để đáp ứng yêu cầu mới, chương trình "Xóa mù nông dân số" được xem là chìa khóa then chốt. Nông dân cần được trang bị năng lực công nghệ, hiểu biết về thị trường và nắm vững các quy trình kỹ thuật phức tạp như MRV hay quản lý phụ phẩm theo hướng tuần hoàn. Đầu tư vào nguồn nhân lực nông thôn là điều kiện tiên quyết để đảm bảo công cuộc chuyển đổi không bị đứt gãy. Con đường hướng tới nông nghiệp xanh, tuần hoàn và các-bon thấp là mục tiêu phát triển của ngành nông nghiệp, và là định hướng chiến lược quốc gia. Đây là hành trình dài đòi hỏi sự đồng thuận của toàn xã hội, sự hỗ trợ của chính sách và sức mạnh sáng tạo của con người Việt Nam. Khi triết lý xanh thấm vào mọi hoạt động sản xuất, khi công nghệ trở thành công cụ phổ biến, và khi người nông dân thật sự trở thành trung tâm của chuyển đổi, Việt Nam có thể vững tin tiến bước đến một nền kinh tế nông nghiệp hiện đại, thịnh vượng và bền vững.

Tầm nhìn chiến lược được xác lập trong Đại hội Đảng XIV khẳng định phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm. Những chỉ tiêu cụ thể về độ che phủ rừng, giảm phát thải và mở rộng khu bảo tồn biển được đặt ra như một cam kết rõ ràng cho giai đoạn mới. Hoàn thiện thể chế kinh tế xanh, phát triển thị trường tín chỉ các-bon, mở rộng cơ sở dữ liệu môi trường và thúc đẩy chuyển đổi số được xem là những nhiệm vụ trọng tâm. Phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên và xử lý ô nhiễm được đặt trong mối quan hệ trực tiếp với mục tiêu phát triển bền vững. Ngành nông nghiệp và môi trường hướng đến quản trị tài nguyên theo cách tiếp cận tổng hợp, trong đó các quyết định phát triển kinh tế phải được cân nhắc trong giới hạn của hệ sinh thái. Tư duy quản lý mới đặt con người và môi trường trong cùng một chỉnh thể, thúc đẩy sự liên kết giữa nông nghiệp, công nghiệp sinh học, năng lượng tái tạo và bảo tồn thiên nhiên. Việt Nam cần tập trung vào ba nhóm giải pháp đột phá. Trước hết là hoàn thiện thể chế, tạo điều kiện cho thị trường các-bon trong nông nghiệp vận hành minh bạch, đảm bảo lợi ích công bằng cho người nông dân. Tiếp đến là đầu tư công nghệ, đặc biệt là xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về phụ phẩm nông nghiệp, phục vụ quản lý và thu hút đầu tư vào kinh tế tuần hoàn. Cuối cùng là đào tạo nguồn nhân lực, hướng tới hình thành một thế hệ nông dân văn minh, có năng lực số và nhận thức sâu sắc về vai trò của mình trong bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Định hướng chiến lược được triển khai đồng bộ, nền kinh tế Việt Nam sẽ từng bước hình thành cấu trúc phát triển mới, trong đó môi trường không còn bị xem là yếu tố phụ trợ mà là thành tố trung tâm. Mục tiêu duy trì tỉ lệ che phủ rừng 42%, nâng tỉ lệ xử lý nước thải lên 70%, giảm 9% phát thải khí nhà kính, đạt 100% cơ sở sản xuất tuân thủ tiêu chuẩn môi trường thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ, phản ánh tầm nhìn dài hạn về một quốc gia phát triển hài hòa, nơi con người và thiên nhiên cùng tồn tại bền vững. Chiến lược phát triển ngành nông nghiệp và môi trường trong kỷ nguyên xanh là lời khẳng định về con đường mà Việt Nam lựa chọn: con đường tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và phát triển dựa trên tri thức. Khi thể chế được hoàn thiện, công nghệ được phổ cập và nhận thức cộng đồng được nâng cao, mọi hành động nhỏ sẽ hợp thành sức mạnh lớn. Hướng đi ấy đòi hỏi sự kiên định, trí tuệ và tinh thần đổi mới không ngừng để bảo đảm tương lai xanh cho các thế hệ mai sau.

Bài liên quan
Đọc tiếp

(0) Bình luận
Nổi bật VOVLIVE
Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp Trưởng Ban Tuyên truyền Trung ương Trung Quốc
VOVLIVE - Chiều 13/11, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tiếp đồng chí Lý Thư Lỗi, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư, Trưởng Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nhân dịp thăm Việt Nam và đồng chủ trì Hội thảo Lý luận lần thứ 20 giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Mới nhất