80 năm Tiếng nói Việt Nam - Âm vang lịch sử, dòng chảy tương lai

TS Vũ Hải Quang Phó, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam | 03/09/2025, 12:27

Trải qua 80 năm thăng trầm, Đài Tiếng nói Việt Nam (TNVN) đã in đậm dấu ấn trong mỗi bước đi của dân tộc. Từ một trạm phát sóng nhỏ bé tại 128C Đại La (Hà Nội) ngày đầu độc lập, Đài TNVN nay đã vươn tầm thành cơ quan truyền thông đa phương tiện chủ lực quốc gia.

Hành trình ấy là một bản hùng ca bằng âm thanh, kết nối quá khứ oanh liệt với hiện tại sống động, làm nên sức sống bền bỉ của “tiếng nói Việt Nam”. Biết bao thời khắc trọng đại gắn liền với tiếng nói ấy: Lời tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (ngày 2/9/1945); lời phát lệnh Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946); lời thơ chúc Tết từ hang núi Trầm (1947); những bản tin “Chính Nghĩa” giữa chiến dịch Điện Biên Phủ (1954); tiếng loa kêu gọi thống nhất ở đôi bờ sông Bến Hải; bản tin chiến thắng trưa 30/4/1975; rồi những chương trình về “Đổi mới” vào cuối thập niên 1980… Tất cả đã trở thành biểu tượng cho ý chí quật cường và khát vọng vươn lên của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Như cố Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu từng viết, Đài TNVN “sinh ra từ máu lửa, lớn lên từ hai bàn tay trắng, đã chiến đấu, xây dựng, trưởng thành cùng cả nước”. Đó vừa là niềm tự hào, vừa là trách nhiệm lớn lao của những người làm báo nói hôm nay.

Ngay từ buổi bình minh độc lập của nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh chiến lược của phát thanh. Chỉ 5 ngày sau Tuyên ngôn Độc lập, lúc 11h30 trưa 7/9/1945, bầu trời Hà Nội vang lên lời xướng thiêng liêng: “Đây là Tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Kể từ khoảnh khắc lịch sử ấy, Đài TNVN đã trở thành “cầu nối giữa Chính phủ với Nhân dân”, một vũ khí sắc bén truyền bá chủ trương, đường lối của Đảng, kết nối lòng dân. Trong suốt kháng chiến, đài vừa là kênh thông tin tin cậy, vừa là “mặt trận” song song với mặt trận quân sự. Hồn cốt của Đài TNVN chính là khả năng kết nối triệu người như một qua thanh âm, truyền đi mệnh lệnh chiến đấu, lời thơ động viên và cả những khúc ca hòa bình, hun đúc tinh thần dân tộc. Dù thế giới có đổi thay như thế nào đi nữa thì tiếng nói ấy vẫn vang vọng như “hồn thiêng sông núi”, vừa là tiếng nói chính thống của quốc gia, vừa là người bạn thân quen trong mỗi gia đình Việt. Không chỉ phục vụ đồng bào trong nước, tiếng nói TNVN còn vượt không gian, đến với kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế, mang theo thông điệp về một Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nhân ái và kiên cường. 80 năm - một chặng đường lịch sử đã qua, TNVN vẫn không ngừng đổi mới để tiếp tục với sứ mệnh vẻ vang của mình là: Âm vang với lịch sử, tiếp nối với dòng chảy tương lai của đất nước.

Trong dòng chảy 80 năm ấy, có hàng ngàn những câu chuyện đặc biệt minh chứng sinh động cho vai trò chiến lược và giá trị lịch sử của Đài TNVN. Do giới hạn của bài viết, chỉ xin nêu hai sự kiện tiêu biểu là “Trận chiến âm thanh” bên bờ sông Bến Hải (1954–1965) và chiến dịch phát sóng đối ngoại chuyển tiếp qua Cuba sang Bắc Mỹ và châu Âu (1968–1976), đây là hai trong số hàng ngàn những trang sử hào hùng thể hiện sức mạnh mềm của thông tin, truyền thông và ý chí kiên cường của những người làm kỹ thuật ở Đài TNVN trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc vô cùng khốc liệt đã qua.

Tiếng loa phóng thanh bên bờ bắc sông Bến Hải: “Trận chiến âm thanh” (1954–1965)

Chiếc loa phóng thanh khổng lồ (công suất 500W) từng “vang bóng” bên bờ Bắc sông Bến Hải, nay được lưu giữ tại Bảo tàng Báo chí Việt Nam và Trụ sở Đài TNVN ở Hà Nội. Hệ thống loa này là một phần vũ khí đặc biệt trên mặt trận tư tưởng sau Hiệp định Geneva 1954, góp phần hun đúc niềm tin thống nhất đất nước. Giữa giới tuyến tạm thời ở vĩ tuyến 17, tiếng loa đã trở thành biểu tượng cho chân lý “lẽ phải và tình người chiến thắng hận thù”. Từ năm 1954, ngay sau ngày đất nước tạm thời chia cắt, Đài TNVN cùng chính quyền cách mạng xác định công tác tuyên truyền địch vận là mặt trận hết sức hệ trọng. Phía bờ Bắc sông Bến Hải (Vĩnh Linh, Quảng Trị) dựng lên một hệ thống loa phóng thanh công suất lớn chạy dọc 1,5 km, gồm 5 cụm với tổng cộng 120 chiếc loa hướng về phía Nam. Hàng ngày, hệ thống này tiếp sóng Đài TNVN và Đài truyền thanh huyện Vĩnh Linh, truyền đi những bản tin thời sự, thông báo chủ trương kháng chiến, xen lẫn chương trình văn nghệ, hò vè đượm tình quê hương, nhằm kêu gọi đồng bào miền Nam kiên cường đấu tranh, nuôi hy vọng thống nhất. Tiếng loa cách mạng vang vọng qua bờ Nam như lời nhắc nhở: Tổ quốc bên kia giới tuyến chưa bao giờ nguôi khát vọng sum vầy.

Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tất nhiên họ cũng không khoanh tay đứng nhìn. Họ cũng lắp đặt những cụm loa công suất lớn nhập khẩu từ Mỹ, Úc, Tây Đức… phát ra bên bờ Bắc, với những luận điệu tuyên truyền nhằm át tiếng nói chính nghĩa của ta. Thế là trên đôi bờ Hiền Lương nổ ra một cuộc đấu âm thanh có một không hai trong lịch sử. Công suất loa hai bên không ngừng được tăng cường, leo thang như một cuộc chạy đua vũ trang. Loa bên này rền vang, bên kia lập tức cũng tăng công suất. Ban đầu, ta chi viện thêm 8 loa 50W cùng một loa 250W do Liên Xô sản xuất, khiến âm thanh phía Bắc áp đảo phía Nam. Địch liền đáp trả bằng cả giàn loa tối tân, huênh hoang rằng âm lượng “có thể làm vỡ kính”. Để giữ vững ưu thế, các kỹ sư của ta đã chế tạo ra những chiếc “loa đại” khổng lồ, công suất 500W, vành loa rộng 1,7 mét, đặt trên xe lưu động để cơ động dọc giới tuyến. Khi hệ thống mới này vận hành, tổng công suất phía ta vọt lên hàng vạn watt; tiếng âm thanh thuận gió đi xa tới 10 km, đến tận Cửa Việt, Chợ Cầu, át cả tiếng đối phương. Cuộc chiến không tiếng súng ấy khốc liệt không kém trận địa bom đạn. Hai bên dốc sức “đọ tiếng” suốt ngày đêm, quyết giành giật từng thính giả ở bên kia giới tuyến.

Nhưng điều làm nên ý nghĩa sâu xa của “trận chiến loa phóng thanh” không chỉ là cuộc đua công suất, mà còn là cuộc đấu của ý chí và thông điệp nhân văn. Ta không đơn thuần tìm cách áp đảo âm lượng, mà quan trọng hơn, qua đó gửi gắm những lời hiệu triệu từ trái tim tới đồng bào, chiến sĩ miền Nam cũng như binh lính bên kia chiến tuyến. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh “không đánh mà thắng”, công tác tuyên truyền địch vận của ta rất mực khéo léo, nhân văn. Nội dung phát thanh được chuẩn bị công phu, đa dạng, tránh lối tuyên truyền khô cứng. Trên làn sóng Đài TNVN và sau này có cả Đài Phát thanh Giải phóng, bên cạnh tin chiến sự và thông cáo quân sự, còn có cả kho tàng văn hóa dân tộc gửi vào Nam. Nhiều chương trình đặc biệt dành cho binh sĩ và sĩ quan quân đội Sài Gòn được thực hiện với giọng đọc truyền cảm, lời lẽ tâm tình thay vì đả kích gay gắt. Thơ ca, mẩu chuyện gia đình và đặc biệt những làn dân ca xứ Huế, dân ca Bình Trị Thiên do nghệ sĩ Châu Loan ngâm đã khiến người nghe vô cùng xúc động. Đêm đêm, giữa đồng bằng hay đô thị miền Nam, không ít binh sĩ phía Việt Nam Cộng hòa lặng lẽ hướng tai về những giai điệu quê hương ngọt ngào ấy. Có cụ cao niên bên bờ Nam sau này kể lại: “Cả làng xã một thời gian khổ nhưng được ấm lòng một phần không nhỏ từ giọng mê hoặc của o Loan vang lên mỗi đêm cuối tuần”. Thật vậy, tiếng thơ, tiếng ca o Loan trên sóng Đài TNVN năm xưa đã lay động biết bao con tim ở đôi bờ giới tuyến, đem tình nghĩa xoa dịu hận thù. Trong cuộc chiến đặc biệt ấy, kẻ thù không bị khuất phục bằng hỏa lực, mà bằng sự thật, bằng lời hiệu triệu và sức mạnh tinh thần dân tộc.

Cuộc chiến tranh âm thanh bên bờ Hiền Lương kết thúc vào năm 1965, khi Mỹ chuyển sang leo thang ném bom dữ dội ra miền Bắc. Địch rốt cuộc phải thừa nhận bất lực trong việc áp đảo tiếng nói chính nghĩa của ta bằng loa phóng thanh và tâm lý chiến, nên đã chọn cách dùng bạo lực hủy diệt. Trận địa loa tạm lắng, nhưng chiến thắng chiến lược của ta trên mặt trận tư tưởng đã được khẳng định: chúng ta đã thắng trong cuộc đấu của lý lẽ và lòng người, góp phần làm lung lay ý chí kẻ thù và củng cố niềm tin tất thắng cho nhân dân ta. Hình ảnh chiếc loa khổng lồ bên bờ Bến Hải năm nào trở thành một biểu tượng sống động cho chân lý lẽ phải và tình người luôn chiến thắng hận thù. Bằng lời ca tiếng hát, ta đã cảm hóa biết bao con người, trong khi địch dù dùng đủ chiêu thức tâm lý cũng không khuất phục được ý chí dân tộc. Như một thông điệp nhân văn sâu sắc, chiếc loa phóng thanh ấy đã chứng minh sức mạnh phi thường của truyền thông cách mạng - thứ sức mạnh bắt nguồn từ lòng nhân ái và niềm tin vào chính nghĩa. Ngày nay, chiếc loa đại 500W từng một thời “vang bóng” ở vĩ tuyến 17 được trưng bày trang trọng tại trụ sở Đài TNVN (58 Quán Sứ, Hà Nội) và Bảo tàng Báo chí Việt Nam. Nó như một nhân chứng lịch sử kể lại câu chuyện hào hùng về một cuộc chiến không tiếng súng, nơi sức mạnh mềm của thông tin và kỹ thuật đã góp phần viết nên trang sử đấu tranh thống nhất đầy kiêu hãnh.

Tiếng nói vượt đại dương nhờ “cánh sóng” của người đồng chí Cuba (1968–1976)

Nếu trận chiến loa phóng thanh ở sông Bến Hải cho thấy sức mạnh kết nối đồng bào thì Đài TNVN trên mặt trận phát thanh đối ngoại lại vươn tầm tới một mặt trận ngoại giao đầy uy lực. Ngay trong kháng chiến chống Pháp, Đài đã tiên phong phát sóng đối ngoại bằng tiếng Anh, Pháp, Hoa, Nga… để giới thiệu với thế giới về một Việt Nam độc lập, tự do. Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, vai trò đối ngoại này càng mở rộng: Đài TNVN phát thêm các thứ tiếng Tây Ban Nha, Thái Lan, Nhật Bản, Triều Tiên…, đưa tiếng nói Việt Nam đến hầu khắp các châu lục. Mục tiêu là tuyên truyền cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc, vạch trần tội ác của Việt Nam Cộng hòa và Mỹ, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, đồng thời cô lập kẻ thù. Trong bối cảnh đó, yêu cầu truyền tải thông điệp trực tiếp đến công chúng Mỹ và châu Âu trở nên cấp bách. Việt Nam đã tìm thấy một đồng minh đáng tin cậy ở ngay bên kia bán cầu: Cộng hòa Cuba. Quan hệ Việt nam - Cuba là “mối quan hệ đặc biệt, hiếm có trong lịch sử quốc tế”, được xây dựng trên sự tin cậy và ủng hộ lẫn nhau trong những thời khắc khó khăn nhất. Ngày 2/12/1960, hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra chương mới cho tình đoàn kết anh em. Trong suốt kháng chiến, Cuba luôn tiên phong trong phong trào nhân dân thế giới đoàn kết ủng hộ Việt Nam, viện trợ cho ta từ lương thực, thuốc men đến chuyên gia cầu đường, bác sĩ…. Sự hỗ trợ toàn diện đó cho thấy mỗi lĩnh vực,  kể cả phát thanh đều được coi là một mặt trận chiến lược. Không chỉ là đồng minh về chính trị và quân sự, Cuba còn sẵn sàng mở “cánh cổng” thông tin để tiếng nói Việt Nam có thể vươn xa.

Chủ tịch Fidel Castro giương cao lá cờ Mặt trận Giải phóng miền Nam trên Cao điểm 241 (Quảng Trị, 9/1973) - hình ảnh chói sáng của tình đoàn kết Việt Nam - Cuba trong khói lửa chiến tranh.  

Chuyến thăm lịch sử của lãnh tụ Fidel tới vùng giải phóng Quảng Trị năm 1973 đã tiếp thêm nguồn cảm hứng và củng cố quyết tâm cho mọi mặt trận, trong đó có những người làm công tác kỹ thuật phát thanh. Fidel Castro không chỉ khẳng định “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”, mà còn trực tiếp chỉ đạo sự hợp tác giúp Việt Nam truyền đi tiếng nói chính nghĩa ra thế giới. Quyết định thiết lập trạm tiếp sóng phát thanh tại Cuba để truyền dẫn chương trình của Đài TNVN sang Bắc Mỹ và châu Âu chính là một sáng kiến táo bạo, thể hiện tầm nhìn chiến lược ấy. Đây là chiến dịch truyền thông đặc biệt, đòi hỏi hợp tác chính trị cấp cao và sự cống hiến không mệt mỏi của những người làm công tác kỹ thuật hai nước.

Trong giai đoạn 1968–1976, Đài TNVN đã thực hiện một chương trình phát thanh đối ngoại đặc biệt, phát sóng hàng ngày đến Bắc Mỹ và Bắc Âu với sự giúp đỡ của những người bạn Cuba và cả những người Mỹ yêu chuộng hòa bình. Về mặt kỹ thuật, Cuba lúc bấy giờ có hạ tầng phát sóng rất mạnh. Đài Phát thanh Quốc gia Cuba (Radio Rebelde) sở hữu mạng lưới 44 máy phát FM cùng một máy phát sóng ngắn công suất lớn trên băng tần 5,025 MHz, chưa kể nhiều máy phát AM khác. Điều này cho phép Việt Nam tận dụng lợi thế cự ly gần và công suất lớn của Cuba để đưa chương trình phát thanh đến thẳng lãnh thổ Mỹ, vượt qua khoảng cách nửa vòng Trái đất. Sự lựa chọn Cuba làm “cầu nối” thể hiện một chiến lược thông minh: sử dụng đồng minh để đưa thông điệp đến thẳng công chúng đối phương, vượt qua mọi rào cản địa lý và chính trị. Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, kỹ thuật phát sóng không chỉ là phương tiện truyền tin, mà bản thân nó đã là một phần của chiến lược đấu tranh. Chính phủ Mỹ cũng lập ra các đài như Radio Marti nhắm vào Cuba, trong khi Cuba cũng dùng máy phát cực mạnh để gây nhiễu các chương trình của Mỹ. Bối cảnh ấy cho thấy đội ngũ kỹ thuật của ta đã phải đối mặt với vô vàn thách thức để truyền tải thành công các chương trình từ Việt Nam sang Mỹ và châu Âu: từ việc vượt qua sự gây nhiễu của đối phương, đến duy trì liên tục và đảm bảo chất lượng tín hiệu.

Những hình ảnh tư liệu còn lưu lại cho thấy một phần của cuộc chiến thầm lặng ấy, để tránh bị đánh phá, trạm phát sóng tại Cuba được đặt ngầm dưới lòng đất. Bên trong, các phòng máy treo những tấm biển tri ân kỹ sư Cuba vì tinh thần làm việc không ngừng nghỉ, ví dụ như biển tưởng niệm Dr. Mario Muñoz Monroy với 29 năm cống hiến. Những bức ảnh Chủ tịch Fidel Castro bên các lãnh đạo Việt Nam cũng được treo trang trọng, kèm dòng chữ “TÌNH HỮU NGHỊ VIỆT NAM - CU BA MUÔN NĂM”, khẳng định công việc kỹ thuật này không chỉ là truyền tải thông tin, mà còn là biểu tượng sống động của tình đoàn kết hai dân tộc. Quả thật, công việc của những người làm kỹ thuật đã trở thành một cuộc chiến thầm lặng, quyết định sự thành bại của mặt trận thông tin này. Phía sau cánh song của Cuba là biết bao mồ hôi, trí tuệ của kỹ sư Việt Nam và Cuba. Sự cống hiến và sáng tạo của đội ngũ kỹ thuật viên hai nước đã biến những thách thức kỹ thuật thành thắng lợi chiến lược. Họ chính là những “chiến sĩ thầm lặng”, đã làm nên kỳ tích giữ vững đường truyền liên tục và ổn định suốt 8 năm trời trong khói lửa chiến tranh. Tinh thần tiên phong đổi mới của họ là nền móng vững chắc cho sự phát triển của Đài TNVN ngày nay: từ một đài phát thanh đơn thuần trở thành một cơ quan truyền thông đa phương tiện mạnh mẽ, với chương trình phủ sóng toàn cầu trên các nền tảng kỹ thuật số hiện đại.

Về nội dung, các chương trình phát thanh đặc biệt của Đài TNVN qua Cuba tập trung cung cấp những tin tức chính xác và cập nhật mới nhất về cuộc chiến. Mục tiêu chủ đạo là vận động bạn bè quốc tế, đặc biệt nhân dân yêu chuộng hòa bình ở Mỹ, đứng lên chống lại cuộc chiến tranh phi nghĩa của Mỹ ở Việt Nam. Sức thuyết phục của chương trình không đến từ tuyên truyền suông, mà từ việc đưa ra thông tin trung thực, đáng tin cậy trong bối cảnh đối phương bưng bít dư luận. Đài TNVN còn khéo léo mời những người Mỹ yêu chuộng hòa bình tham gia sản xuất bản tin, làm tăng tính xác thực và uy tín cho tiếng nói từ Việt Nam. Nhờ đó, Đài đã xây dựng được một cầu nối tin cậy với các phong trào phản chiến ngay trên đất Mỹ. Những sự thật khách quan về thương vong và sự phản đối trong lòng nước Mỹ được phát đi hàng ngày đã giáng đòn tâm lý nặng nề vào binh lính viễn chinh, khiến họ hoài nghi thông tin một chiều từ hệ thống tuyên truyền Hoa Kỳ. Hiệu quả của cánh sóng Cuba rất to lớn: các chương trình này tác động mạnh mẽ đến dư luận quốc tế, nhất là tại Mỹ và châu Âu. Hưởng ứng lời kêu gọi hòa bình, hàng triệu người Mỹ đã xuống đường biểu tình, tổ chức bãi công, đốt thẻ quân dịch, chống đi lính, góp phần làm tê liệt một phần guồng máy chiến tranh của Mỹ. Thậm chí, những chương trình này còn là một trong những kênh thông tin sớm nhất ra thế giới về Ngày Giải phóng miền Nam 30/4/1975. Cho đến những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến, làn sóng phát thanh đặc biệt ấy vẫn chứng tỏ hiệu quả, để rồi lưu lại bài học rằng trong chiến tranh thông tin, sự thật và lòng tin chính là vũ khí sắc bén nhất.

Chiến dịch phát sóng qua Cuba đã trở thành một minh chứng hùng hồn cho vai trò của Đài TNVN như một “mặt trận không tiếng súng”. Thành công của chiến dịch không chỉ là thắng lợi về chính trị, ngoại giao mà còn là đỉnh cao của sự hợp tác kỹ thuật giữa hai nước. Việc sử dụng Cuba làm “cánh cổng” đưa tiếng nói Việt Nam đến Mỹ và châu Âu là một quyết định chiến lược sáng suốt, vượt qua những rào cản tưởng như không thể vượt qua. Tầm quan trọng của công tác kỹ thuật và những người làm kỹ thuật không hề được phóng đại - họ đã biến một ý tưởng táo bạo thành hiện thực, bảo đảm đường truyền liên tục, ổn định trong suốt 8 năm chiến tranh khốc liệt. Câu chuyện về “cánh sóng” Cuba cũng là một biểu tượng sống động của tình hữu nghị quốc tế. Mối quan hệ Việt Nam - Cuba, “đồng chí, anh em” keo sơn gắn bó, được hun đúc trong lửa đạn chiến tranh, đã chắp cánh cho sức mạnh truyền thông Việt Nam bay xa. Di sản của “cánh sóng” Cuba không chỉ là một chương vàng trong lịch sử Đài TNVN, mà còn là một bài học sâu sắc về sức mạnh của thông tin, của lòng tin và tình đoàn kết.

Di sản vang vọng, sứ mệnh tiếp nối

80 năm kể từ mùa thu lịch sử 1945, Đài Tiếng nói Việt Nam hôm nay đã vươn mình mạnh mẽ, nhưng vẫn vững vàng tinh thần “thép trong bút, lửa trong tim” của các thế hệ đi trước. Từ những chiếc loa phóng thanh bên bờ Bến Hải năm xưa đến những nền tảng số hiện đại hôm nay, tiếng nói ấy vẫn mãi vang vọng như “hồn thiêng sông núi” của một dân tộc kiên cường. Đài TNVN không chỉ là kênh phát thanh, mà đã trở thành một thương hiệu truyền thông quốc gia tích hợp đa loại hình: báo nói, báo điện tử, báo in và các chương trình đa phương tiện trên nền tảng số. Dẫu vậy, mỗi cán bộ, phóng viên của Đài vẫn luôn khắc ghi lời căn dặn của Bác Hồ: “Phải giữ gìn bằng được tiếng nói của Đảng, Chính phủ và nhân dân trong mọi tình huống”. Từ làn sóng ấy, ngày nay dù trên tần số radio hay trên nền nền tảng internet, thì mãi mãi phải là dòng chảy thông tin trung thực, chính thống và gắn bó với Đảng và nhân dân. Những di sản vang vọng từ chặng đường 80 năm qua, từ trận chiến loa phóng thanh đến “cánh sóng Cuba”, sẽ luôn là điểm tựa tinh thần để Đài TNVN vững bước trong thời đại số. Với sứ mệnh kết nối và lan tỏa sự thật, lòng nhân ái và khát vọng Việt Nam đến muôn nơi, Tiếng nói Việt Nam sẽ tiếp tục vang mãi cùng năm tháng – vọng mãi cùng non sông.

Bài liên quan
Đọc tiếp

(0) Bình luận
Nổi bật VOVLIVE
Nhìn lại chuyến công tác của Thủ tướng: Làm sâu sắc quan hệ hợp tác giữa Việt Nam-Trung Quốc
Thủ tướng Phạm Minh Chính và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam vừa kết thúc tốt đẹp chuyến công tác tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) 2025 với tư cách Khách mời của nước chủ nhà và làm việc tại Trung Quốc từ ngày 31/8/2025 đến ngày 1/9/2025.
Mới nhất