-
Tìm trong kho báu
Lịch sử văn học Việt Nam qua các thời kỳ đã xuất hiện nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng - nghệ thuật sâu sắc, thấm đậm tính nhân văn, trở thành tài sản tinh thần quý báu của dân tộc cũng như góp phần không nhỏ vào kho tàng văn học thế giới. Với chương trình “Tìm trong kho báu” ngoài việc tiếp cận các tác phẩm văn học đương đại, quý thính giả hôm nay còn có thêm cơ hội nghe các tác phẩm văn học trong quá khứ, để hiểu về cuộc sống, văn hóa, con người, bối cảnh xã hội đã cách xa 50 năm, một thế kỷ, hoặc xa hơn nữa. Văn hóa nói chung, văn học nói riêng luôn cần tiếp nối để làm giàu tâm hồn, tri thức của mỗi người, nhất là thế hệ trẻ.
Chương mới nhất
-
Từ lâu đời, hoa sen đã trở thành biểu tượng đẹp trong đời sống người Việt. Chiều sâu hình ảnh, hương sắc bông sen không chỉ là biểu tượng về nhân cách mà còn là biểu tượng về văn hóa. Mỗi bài ca dao về hoa sen đều mang liên tưởng, ý niệm riêng.Thu gọn
-
Tự thuở xa xưa, cùng với nón thúng vai thao, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, quần nái, dải yếm thắm mang lại cho người thiếu nữ vẻ đẹp dịu dàng, yểu điệu, duyên dáng mà cũng rất mặn mà và đằm thắm. Dải yếm đào - biểu tượng cho vẻ xuân sắc trở đi trở lại trong những câu ca dao tình tứ. Một trang phục phổ biến đã trở thành đại từ danh xưng chỉ người phụ nữ Việt, đại diện cho ái tình và cũng là số mệnh của họ. Dải yếm chứng kiến nhân duyên lứa đôi; Câu chuyện của dải yếm, là câu chuyện của ái tình, của ân nghĩa đã xuôi ngược ngàn năm đất Việt.Thu gọn
-
Rào đón và bày tỏ thái độ trực tiếp qua những câu hát giao duyên, các chàng trai cô gái đã bộc lộ mong muốn và giãi bày nỗi lòng với đối phương.Thu gọn
-
Trong số các cách thức giao tiếp trong tình yêu đôi lứa thì việc sử dụng lối nói mơ hồ, vòng vo được xem là một cách ý nhị nhằm thổ lộ tình cảm, mong muốn của các chàng trai, cô gái xưa, vốn trọng sự kín đáo. Sử dụng lối nói mơ hồ, không rõ ràng đã tạo ra những hàm ngôn trong câu thoại của cuộc giao tiếp. Tác giả dân gian đã dùng nhiều biện pháp tu từ như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, điển tích điển cố... Trong đó, nổi bật nhất là biện pháp tu từ ẩn dụ để nói lên cảm xúc trước một sự kiện, câu chuyện.Thu gọn
-
Trong ca dao về đề tài tình yêu đôi lứa, có nhiều cách xưng hô khác nhau. Tùy theo cách lựa chọn từ xưng hô của nhân vật giao tiếp sẽ giúp thiết lập và duy trì mối quan hệ tình cảm. Cách xưng hô trong ca dao tình yêu đã thấy được thái độ, tình cảm của người nói đối với người nghe. Đó cũng là yếu tố làm nên chất trữ tình, điểm đặc sắc của thể loại văn học dân gian nàyThu gọn
-
Một mái ấm, một người bạn đời cùng chia sẻ buồn vui, đó là khát vọng, là mục đích hướng tới trong cuộc sống của người Việt ta nhiều đời nay. Mái ấm gia đình là giá trị tinh thần của con người ở tuổi trưởng thành. Trong ca dao về hôn nhân và tình cảm vợ chồng đã đề cập một cách kỹ lưỡng điều này, cho thấy đó là đặc trưng văn hoá của con người, dân tộc ta.Thu gọn
-
Tình yêu, mái ấm gia đình vẫn luôn là khát vọng, hướng vọng của con người mọi thời, mọi đời. Điều đó thể hiện một cách đầy tinh tế và sâu sắc trong ca dao đề cập tới lứa đôi của người Việt ta.Thu gọn
-
Ngôn ngữ ca dao, tục ngữ có hình ảnh con trâu thể hiện đầy đủ các khía cạnh của văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Nói đến trâu là nói đến nền sản xuất nông nghiệp và văn hoá làng xã. Bên cạnh ý nghĩa hiển ngôn, PGS.TS Lê Đức Luận – Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng còn chỉ ra ý nghĩa hành ngôn của những bài ca dao nói về hình ảnh con trâu, thể hiện những nhận xét của tác giả dân gian về con người, việc đời và rút ra các mối quan hệ nhân sinh.Thu gọn
-
Nói đến hình ảnh con trâu là nói đến nền sản xuất nông nghiệp và văn hoá làng xã. Ngày nay, thời đại máy móc và công nghiệp, chúng ta ít thấy hình ảnh con trâu kéo cày trên cánh đồng như những ngày xưa. Thật đáng quý là vẫn còn lại những câu ca cho thấy quan niệm của cha ông về một loài vật gắn bó thân thuộc, và sâu đậm hơn cả là ân tình gửi gắm trong hình ảnh đẹp về lao động sản xuất nông nghiệp.Thu gọn
-
Bài ca dao “Thằng Bờm” nói về câu chuyện đổi chác kịch tính gay cấn giữa hai con người đại diện cho hai tầng lớp đối lập trong xã hội phong kiến. Bài ca dao kết thúc với hình ảnh “nắm xôi” gần gũi với người lao động. Không phải ngẫu nhiên mà bài ca dao “Thằng Bờm” phổ biến trong dân gian, già trẻ, lớn bé đều thích, đều thuộc. Câu chuyện “nắm xôi” tưởng giản đơn nhưng giá trị mà những câu ca để lại vô cùng đa nghĩa và thấm thía.Thu gọn
-
Người nông dân xưa và cả ngày nay đều vô cùng phấn khởi khi có những mùa vàng bội thu. Hạt thóc thu hoạch về nhà được xay xát thành gạo, thành tấm, cám, làm lương thực, rơm rạ, tro, tro trấu được sử dụng hữu ích trong cuộc sống hàng ngày. Thấu hiểu vòng đời của hạt thóc, hạt gạo, cha ông ta có những ví von, ẩn dụ hết sức sâu sắc với nhiều cảnh tình trong đời sống.Thu gọn
-
Từ ngàn năm nay, ruộng đồng và cây lúa không chỉ nuôi nấng để bao thế hệ con người Việt Nam trưởng thành mà hơn thế nữa đã trở thành một phần ký ức, ký thác nỗi niềm, tâm sự của cả một đời người. Trong những áng ca dao viết về cây lúa, chúng ta thấy hiện lên thân phận và quan niệm về cuộc sống của người nông dân. Nghiên cứu từ Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam đã tiến hành khảo sát và phát hiện lời ca thuộc về trường nghĩa chỉ lúa và các sản phẩm làm từ lúa, chiếm hơn 8 % trong tư liệu “Kho tàng ca dao người Việt”. Như vậy, số lượng các từ ngữ chỉ lúa và sản phẩm làm từ lúa xuất hiện trong ca dao là khá phong phú, đa dạng. Từ những tên gọi cây lúa cho đến bộ phận của cây lúa, giống lúa, sản phẩm được làm từ lúa và món ăn cơ bản từ lúa của cư dân nông nghiệp lúa nước như lúa, mạ, thóc, gạo, cơm, cháo, xôi, bánh,… xuất hiện nhiều lần trong ca dao.Thu gọn
-
Từ trong ca dao, những cánh cò là biểu tượng cho số phận nhọc nhằn, nắng mưa vất vả của người nông dân và đặc biệt là người phụ nữ Việt Nam. Những câu ca giàu hình ảnh, nhẹ nhàng mà thấm thía biết bao nỗi đời.Thu gọn
-
Từ xa xưa, các thể loại văn học dân gian nước ta như thành ngữ, tục ngữ, ca dao đều có nhiều câu ngợi ca cây lúa, hạt gạo đã làm nên bản sắc và tầm vóc tinh thần của dân tộc. Từ một hình ảnh bình dị, quen thuộc, qua các thủ pháp nghệ thuật đã trở thành biểu tượng cảm xúc, cho số phận con người Việt Nam ta qua nhiều thời đoạn.Thu gọn
-
Trở lại với đề tài lễ hội trong ca dao, từ nhiều đời nay, vào mùa Xuân, ở miền Bắc nước ta diễn ra rất nhiều lễ hội nổi tiếng thu hút khách thập phương. Và trong số những hội Xuân đó, có một số lễ hội có những phần thi tài hết sức li kỳ, độc đáo.Thu gọn
-
Kinh Bắc vốn là một vùng đất có lịch sử lâu đời. Nơi đây tập trung nhiều làng nghề nổi tiếng như tranh Đông Hồ, gốm Bát Tràng, gỗ Đồng Kỵ, nem Bùi, bánh đa nem Thổ Hà, bánh đa Kế, mì Chũ, vải thiều Lục Ngạn... Chính nơi đây, dân ca quan họ và hội Gióng được UNESCO vinh danh di sản văn hóa phi vật thể; mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là di sản tư liệu thế giới. Mỗi độ sang Xuân, đất Kinh Bắc lại rộn ràng nhiều lễ hội.Thu gọn
-
Những ngày tháng Hai, tháng Ba âm lịch, không khí hội Xuân rộn ràng ở nhiều đền chùa khắp đất nước ta. Nhiều câu ca dao xưa truyền tụng tới ngày nay diễn tả một cách sinh động như một cách nhắc nhớ về các hội Xuân lâu đời.Thu gọn
-
- Khi hiện thân ở nước ta, Liễu Hạnh công chùa mang hình tượng của một nữ thi sĩ uyên bác để lại nhiều bài xướng họa. Ngoài ra bà còn giáng bút bằng thơ hay câu đối ở nhiều nơi. Những truyền thuyết này đã được ghi thành thần tích trong các tác phẩm: Truyền kỳ tân phả (Đoàn Thị Điểm, thế kỷ 18), sách Liễu Hạnh công chúa diễn ngâm (Nguyễn Công Trứ, thế kỷ 19), và sách Vân Cát thần nữ cổ lục diễm ngâm (khuyết danh). Chương trình hôm nay tiếp tục câu chuyện đối đáp thơ văn giữa công chúa Liễu Hạnh và Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. - Thời gian là phép thử cho giá trị những vần ca dao truyền tụng tới hôm nay. Qua nhiều biến thể, đường đi của ca dao tới các thế hệ đương thời càng thêm rộng mở. Nhà văn, Tiến sĩ Phạm Việt Long chia sẻ về sức lan tỏa của ca dao tới đời sống đương đại. - Tác giả Đào Đức Nhuận đưa chúng ta trở về không khí những lễ hội chùa xuân trong ca dao.Thu gọn
-
- Từ nhiều đời nay, ở nước ta, dân gian đã có những tín ngưỡng tôn sùng và thờ phụng các vị thánh nhân, là biểu tượng cho khát vọng tinh thần kết tinh những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Bên cạnh đó, tinh thần phật giáo cũng thấm nhuần và tâm hồn dân tộc đi vào đời sống tâm linh và thế tục. Khá nhiều những lễ hội dân gian mùa xuân đã thể hiện điều đó. Cùng tìm về xuất xứ các hội xuân truyền thống trên đất nước ta ... - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Nho đồng hành cùng chương trình “Cảm bình về một bài ca dao” đề tài ca ngợi cảnh đẹp đất nước - Ôn lại giai thoại xướng họa giữa hiện thân thánh mẫu Liễu Hạnh và Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan.Thu gọn
-
- Âm hưởng lễ hội đầu xuân xứ Bắc qua một số vần ca dao tiêu biểu cùng những câu hát đối đáp giao duyên làm nên không khí lễ hội đã đi vào tâm thức dân gian. - Giai thoại đối đáp duyên dáng tài hoa của con người Kinh Bắc xưa.Thu gọn
-
- Ca dao được ví như cung đàn muôn điệu của người bình dân. Có thể nói bên cạnh những giai điệu tươi vui và rộn ràng, ta còn nghe vọng không ít những khúc nhạc buồn thương ai oán. Đó là nỗi lòng của những kiếp người bất hạnh, những cảnh đời éo le, trắc trở. Và ai oán, cảm thương hơn cả là những câu hát than thân của người phụ nữ. Từ đây, người đương thời và đời sau thấy được bi kịch của thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến...Chương trình hôm nay cùng ngẫm lại những câu ca như thế... - Cuộc đời công chúa Huyền Trân (tên thật Trần Thị Ngọc Bảo) - con gái vua Trần Nhân Tông qua câu chuyện đã đi vào thơ ca dân gian.Thu gọn
-
- Việt Nam vốn là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Người dân Việt quanh năm hai sương một nắng canh tác trên đồng ruộng. Chỉ sau vụ Chiêm và vụ Mùa, tức mùa Xuân và mùa Thu, người nông dân mới được nghỉ tay. Cũng dịp này, các làng tổ chức hội hè. Và đó cũng là nguyên cớ ra đời các lễ hội lâu đời, đặc biệt là được tổ chức rất nhiều vào mùa Xuân. Nhà nghiên cứu Đào Đức Nhuận điểm lại tuần tự các lễ hội mùa xuân ở miền Bắc nước ta… - Cảm bình của nhà thơ Nguyễn Thế Kiên về ca dao đối đáp trong lễ hội mùa xuân ở nước ta. - Ôn lại giai thoại xuất xứ bài thơ Chùa Hương của thi sĩ Nguyễn Nhược Phác.Thu gọn
-
- Bước ra từ thần thoại, rồng là một biểu tượng tôn nghiêm, cao quý rất được người thời xưa coi trọng. Bởi vậy, nhiều tác phẩm văn học dân gian nước ta đề cập tới biểu tượng rồng… - Nhà thơ Nguyễn Thế Kiên, và PGS, Tiến sĩ Phạm Văn Tình bình giải về một số bài ca dao nói về các tháng mùa xuân - Trở lại với hình tượng rồng qua truyền thuyết về Mạc Đăng Dung, người khai sáng vương triều Mạc ở nước ta.Thu gọn
-
- Từ xa xưa, trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam ta, bên cạnh tên gọi quen thuộc là Tết ta, Tết Cổ truyền, Tết Âm lịch, Tết Nguyên đán còn được gọi là Tết Cả, mở đầu một năm mới khoảnh khắc giao thoa đất trời có ý nghĩa vô cùng linh thiêng. Bởi thế mà kho tàng ca dao của dân tộc ta có rất nhiều câu ca nói về ngày Tết. Tác giả Đào Đức Nhuận đã thống kê những áng ca dao đặc sắc về đề tài này… - Ôn lại giai thoại về câu đố mừng xuân của Uy viễn tướng công Nguyễn Công Trứ.Thu gọn
-
- Tiếp nối câu chuyện tài năng và khí khái của văn nhân, nhà soạn tuồng tài ba Vương Tôn Ưng Bình Thúc Dạ Thị. - Trong kho tàng ca dao của dân tộc ta, những câu ca ca ngợi quê hương, xứ sở chiếm số lượng khá nhiều. Riêng về mảng ca dao về xứ Huế, điều dễ nhận thấy là sự dày đặc các địa danh và tâm tình lắng đọng qua các sự kiện lịch sử. Nhà phê bình văn học Vũ Nho nhận xét về những bài ca dao ca ngợi quê hương đất nước và cảm nhận những câu ca về địa danh xứ Huế…Thu gọn
-
- Điểm lại những áng ca dao viết về cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế. - Ôn lại giai thoại về cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một danh nhân nổi tiếng của Huế xưa. - Ca dao về xứ Huế có nhiều câu đặc tả về cảnh sắc thiên nhiên các địa danh. Âm điệu của hầu hết những câu ca dao này nhẹ nhàng, chuyển tải nỗi niềm tâm sự của con người cố đô đa sầu, đa cảm. Những phân tích của tác giả Lê Khắc Ngọc Quỳnh về những áng ca dao đặc sắc của xứ Huế…Thu gọn
-
- Giai thoại thú vị về tác giả của câu ca “Gió đưa cành trúc la đà” phổ biến ở miền Bắc và những áng ca dao viết về xứ Huế. - Nhà văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ điểm qua các tư liệu ghi lại thời điểm xuất hiện của bài ca dao “Gió đưa cành trúc la đà”. - Huế là vùng đất có truyền thống lịch sử, chiều sâu văn hóa. Từng là Thủ phủ của Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, rồi trở thành kinh đô đất nước dưới triều Tây Sơn và tiếp tục là kinh đô trong gần một thế kỷ rưỡi dưới triều Nguyễn, ca dao về xứ Huế cũng phong phú, đa dạng về nội dung, cảm xúc…Thu gọn
-
- Hành trình lập chí của danh nhân Đào Duy Từ. - Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ phân tích phong cách bác học trong bài ca dao “Gió đưa cành trúc la đà”. - Nhiều nhà nghiên cứu đã cất công tìm hiểu về các địa danh được đề cập tới trong bài ca dao "Gió đưa cành trúc la đà...", đặc biệt là địa danh Thọ Xương. Vậy Thọ Xương, địa danh Hà Nội hay ở Huế?...Thu gọn
-
- Cuộc gặp gỡ chính thức giữa vị mưu sĩ tuổi Thân và chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. - Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ phân tích phong cách dân gian trong bài ca dao “Gió đưa cành trúc la đà”. - Nhiều bài ca dao các vùng miền mở đầu bằng mô – típ quen thuộc “Gió đưa”. Và mô – típ này cũng diễn tả, phát triển thành những hình ảnh câu chuyện, cảm xúc vô cùng phong phú, đa dạng. Chương trình hôm nay, cùng tác giả Lương Thư Trung tìm hiểu về hình tượng độc đáo này…Thu gọn
-
- Hành trình tìm kiếm minh quân của danh nhân Đào Duy Từ. - PGS, Tiến sĩ Phạm Văn Tình cảm bình về một bài ca dao đối đáp về tình yêu đôi lứa. - Người xưa thường mượn những hình ảnh thân thuộc, gần gũi để ký thác nỗi niềm, tâm sự. Trúc, mai là những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt và cũng xuất hiện rất nhiều lần trong ca dao. Tác giả dân gian nhắc đến trúc, mai; nhưng không phải để tả thực cây trúc, cây mai, cũng không phải bàn chuyện trúc mai phong cảnh, mà mượn mai, trúc để nói về con người...Thu gọn
-
- Mộc mạc, bình dị mà cũng vô cùng sâu sắc và thâm thúy, càng đi vào những áng ca dao của dân tộc, chúng ta càng thấy được tấm lòng và trí tuệ của người lao động xưa. Không chỉ vận dụng lối nói nôm na, giản dị, cha ông ta còn sử dụng các biểu tượng, các cách nói hết sức sáng tạo để chuyển tải câu chuyện tâm tình qua ca dao. Trong chương trình hôm nay, đi vào một biểu tượng tiêu biểu ẩn dụ về con người Việt Nam qua những câu ca truyền đời. PGS, Tiến sĩ Phạm Văn Tình đồng hành cùng chương trình đi tìm vẻ đẹp ca dao. - Giải mã xuất xứ một bài ca dao gắn với giai thoại về tài trí của danh nhân Đào Duy Từ.Thu gọn
-
- Ca dao xưa có câu: “Chỉ đâu mà buộc ngang trời/ Thuốc đâu mà chữa con người lẳng lơ”. Đi vào những bài ca dao về đề tài phụ nữ lẳng lơ, chúng ta hiểu thêm quan niệm về tự do của người phụ nữ trong xã hội cũ nhưng một mặt tự hỏi phải chăng những câu dao này là kết quả của những bức bối và dồn nén, bất hạnh và đau khổ? Rõ ràng ca dao đã diễn đạt ước mơ của những con người lao động chịu rất nhiều tầng áp bức trong xã hội phong kiến. - Giai thoại Bà chúa thơ Nôm đối đáp lại những lời bỡn cợt của một ông đồ khi bà về thăm quê cha.Thu gọn
-
- Sắc thái hài hước bao trùm trong những bài ca dao trào phúng về phụ nữ. Khác với ca dao trữ tình được sáng tác nhằm giãi bày tâm tư tình cảm, ca dao hài hước dùng tiếng cười để mỉa mai, châm biếm những hiện tượng chưa lành mạnh, những thói hư tật xấu của phụ nữ trong xã hội. - Tiếp nối câu chuyện về nữ sĩ tài danh Đoàn Thị Điểm.Thu gọn
-
- Nói đến vẻ đẹp của con người, ca dao nhắc đến một yếu tố không kém phần quan trọng – đó là trang phục. Vẻ đẹp hình thức của chàng trai hay cô gái rõ ràng không chỉ thể hiện ở khuôn mặt, vóc dáng mà còn phụ thuộc vào cách ăn mặc, vào chất liệu của vải vóc quần áo và những thứ phục trang khác. Chương trình hôm nay điểm lại dấu ấn trang phục làm nên bản sắc trong hình thức của các chàng trai, cô gái xưa… - Ôn lại giai thoại yếm đào, váy lĩnh của phụ nữ thời phong kiến.Thu gọn
-
- Trong thị hiếu thẩm mỹ dân gian, sự vận động, chuyển động có một vị trí rất đáng kể. Vẻ đẹp của thân thể không phải chỉ nằm ở sự cân đối hình thức thuần túy của các bộ phận của cơ thể như mắt, miệng mà còn phụ thuộc vào sự kết hợp, tính chất sống động. Những phạm trù vẻ đẹp hình thức trong ca dao được tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân phân tích qua một số câu ca tiêu biểu. - Giai thoại về mối duyên giữa các vị vua với các cô gái thường dân.Thu gọn
-
Sự hài hòa của ngũ quan làm nên vẻ đẹp gương mặt mỗi con người. Người xưa có những quy chuẩn riêng về vẻ đẹp người phụ nữ, trong đó đề cao nét tự nhiên, tươi tắn gắn với cảm tình về nết ăn, ở. Tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân phân tích về vẻ đẹp, nụ cười, lời nói trong ca dao….Thu gọn
-
Truyền thống yêu và ngợi ca cái đẹp của dân gian in đậm trong ca dao. Miêu tả và mến yêu vẻ đẹp về hình thể con người là một đề tài được viết nhiều. Theo tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân, điều đó quy chiếu thị hiếu thẩm mỹ của người xưa…Thu gọn
-
Theo khảo sát, trong kho tàng ca dao người Việt có hơn 4500 bài ca than thân thì có tới 2/3 trong số đó phản ánh thân phận phụ nữ. Và với người phụ nữ trong xã hội phong kiến khi đã có gia đình, tiếng nói than thân càng trở nên não nề....Thu gọn
-
Theo các thống kê, ca dao về đề tài tình yêu đôi lứa chiếm một nửa trong kho tàng ca dao của nước ta. Và trong nhiều cung bậc tình cảm thì nổi lên là nỗi buồn, nỗi ngậm ngùi của thân phận người phụ nữ không được tự quyết trong tình yêu. Các số liệu cho thấy, trong ca dao viết về tình yêu có đến 2/3 viết về tâm sự tình yêu của người con gái. Trên con đường tìm đến hạnh phúc, họ gặp rất nhiều trở ngại, khổ đau và việc bày tỏ những cảm xúc này cho thấy khát vọng bình đẳng trong tình yêu và cuộc sống…Thu gọn
-
Ca dao nước ta có nhiều bài ca ngợi con người, cảnh sắc thiên nhiên, đất nước. Đề tài Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội - Thủ đô ngàn năm văn vật cũng xuất hiện nhiều trong những câu ca truyền khẩu nhiều đời. Cùng điểm lại những dấu ấn đất và người Thăng Long – Đông Đô - Hà Nội trong ca dao…Thu gọn
-
- Trong số những mẫu hình phụ nữ trong xã hội phong kiến, bên cạnh những người phụ nữ yên phận vẫn có những người bản lĩnh, dám đứng lên chống lại những bất công trong gia đình và xã hội. - Tìm lại những giá trị của ca dao. - Giải mã ngọn nguồn một bài ca dao cổ thú vị.Thu gọn
-
- Văn học dân gian nước ta, đặc biệt là ca dao thể hiện khá rõ nét thân phận của người phụ nữ trong xã hội nam quyền phong kiến. Đồng thời, ca dao cũng phản ánh thái độ phản kháng của họ trước sự đối xử bất bình đẳng. Quá trình tìm đến quyền “làm người” của phụ nữ nông thôn ngày trước quả thực lắm gian nan. Tiến sĩ Phạm Văn Hóa phân tích những hình ảnh người phụ nữ trong ca dao nước ta… - Tìm về giai thoại phó bảng Phan Văn Ái giễu lệnh cấm quần không đáy.Thu gọn
-
- Giai thoại hát hò khoan đối đáp giữa ông Bày Tỏi và bà Bảy Út - PGS, Tiến sĩ, Nhà phê bình văn học Vũ Nho khám phá nét đẹp trong ứng xử của bài ca dao đối đáp “Chèo lên cây bưởi hái hoa” - Trong ca da, hình ảnh tâm trạng của phái nam cũng hiện lên khá chân thật. Từ những màn đối đáp với các cô gái, tiến sĩ La Mai Thi Gia phân tích góc nhìn về sự thâm thúy, đáo để của các chàng trai xưa…Thu gọn
-
- Trong đề tài ca dao đối đáp thì những cặp ca dao có nội dung đối đáp (theo kiểu “ăn miếng trả miếng”) được đánh giá là mảng hay nhất, thú vị nhất. Theo Tiến sĩ La Mai Thi Gia, những câu nói qua nói lại, vặn qua vặn lại, đá qua đá lại… của các cặp nhân vật trữ tình trong mảng ca dao này đã thể hiện được đầy đủ tính cách chất phác, nghịch ngợm, dí dỏm của người bình dân. Những câu đối đáp sắc sảo là kết tinh của sự thông minh, đáo để, bộc trực, thẳng thắn của người dân lao động. Đặc biệt, ca dao xưa đề cao sự nhanh nhạy của người phụ nữ, thể hiện qua những lời đối đáp hết sức thông minh, khôn ngoan, khéo léo…Nhà văn, Tiến sĩ Phạm Việt Long tiếp tục đồng hành cùng chương trình trình bày những phát hiện của ông về ca dao đề tài hôn nhân gia đình. - Câu chuyện hát hò khoan đối đáp của một nghệ nhân nổi tiếng đất Quảng Nam.Thu gọn
-
- Trong ca dao tình yêu nam nữ thì hình thức thể hiện chủ yếu là đối đáp giao duyên. Trong chương trình trước, chúng ta đã tìm hiểu về hình thức đối đáp đầu tiên đó là đố và đáp. Chương trình hôm nay cùng đi vào cụ thể hình thức đối đáp thứ hai, đó là hỏi và đáp. Nếu như các câu ca dao có nội dung đố và đáp nhằm mục đích chính là thách đố thì những cặp ca dao hỏi và đáp lại thể hiện khả năng ứng đáp khi thẳng thắn, có lúc lại vô cùng khéo léo của dân gian. Những phân tích của Tiến sĩ La Mai Thi Gia về hình thức hỏi và đáp trong ca dao tình yêu. - Nhà văn, tiến sĩ Phạm Việt Long chia sẻ về ứng dụng công nghệ thông tin vào nghiên cứu ca dao về quan hệ gia đình. - Giải mã câu ca dao gắn với mối duyên của Vua Gia Long ở Cù lao Ông Trưởng, An Giang.Thu gọn
-
Kho tàng ca dao của nước ta có nhiều bài hay, sinh động, sâu sắc về đề tài tình yêu. Vận dụng khéo léo các khẩu ngữ, lối sinh hoạt, lời ăn tiếng nói hàng ngày, nhiều bài ca dao qua đối đáp đã đọng lại và lưu truyền qua nhiều đời. Chúng ta cùng tìm hiểu về thi pháp của thể loại đầu tiên trong đối – đáp là đố – đáp, tức là câu đố và câu trả lời trong đối đáp giao duyên của dân gian…Thu gọn
-
Càng đi sâu tìm hiểu về ca dao, chúng ta càng thấy được sức truyền cảm của thể loại văn học dân gian này. Sở dĩ ca dao có được điều đó là nhờ chất trữ tình hay còn gọi là chất thơ thấm đượm trong từng câu chữ. Chương trình hôm nay, ngẫm về chất thơ của ca dao và đồng hành cùng nhà văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ giải mã nét độc đáo, khác biệt giữa ca dao dân gian và ca dao bác học…Thu gọn
-
Ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian. Những tác phẩm trong thể loại này dù nói lên mối quan hệ giữa con người trong lao động, trong sinh hoạt gia đình xã hội hoặc nói lên những kinh nghiệm sống và hành động thì bao giờ cũng bộc lộ thái độ chủ quan của con người đối với những hiện tượng khách quan chứ không phải miêu tả một cách khách quan những hiện tượng, những vấn đề. Cho nên ở ca dao, cái tôi trữ tình được nổi lên một cách rõ nét. Chương trình hôm nay, cùng nhà thơ, nhà nghiên cứu Mã Giang Lân ngẫm về chất trữ tình cũng như tính ứng dụng của ca dao trong đời sống xưa nay…Thu gọn
-
Trong kho tàng văn học dân gian của nước ta, với mỗi người Việt, ca dao là một thể loại gần gũi, quen thuộc, thiết thân. Qua thời gian, qua nhiều giai đoạn lịch sử, những bài học và giá trị của ca dao trong vận dụng đời sống vẫn luôn tươi mới, sâu sắc. Chương trình hôm nay, cùng tìm về với những vần ca dao chuyên chở tâm tình và cả ân tình của người Việt chúng ta…Thu gọn
-
Nhìn lại nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Thế Lữ được coi là một trong những ngọn cờ tiên phong của phong trào Thơ Mới, được tôn làm đàn anh của cả một thế hệ thi sĩ và được Hoài Thanh chọn làm người mở đầu trong tuyển tập Thi nhân Việt Nam. Thế Lữ cũng là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn kể từ ngày mới thành lập và ông còn có nhiều đóng góp đa dạng, phong phú ở các lĩnh vực như truyện, phê bình văn học, sân khấu, dịch thuật…Thu gọn
-
Trong chương trình trước, chúng tôi đã giới thiệu di sản văn chương Quách Tấn trong thời kỳ đầu của ông qua hai tập Một tấm lòng và Mùa cổ điển, với các bài viết, nhận định và đánh giá của những người cùng thời là Hoài Thanh, Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử. Trong chương trình hôm nay, chúng ta cùng tìm hiểu di sản văn chương Quách Tấn qua bài viết "Mấy chục năm qua giấc mộng dài" của nhà văn Phạm Khải như là một nhận định tổng quan về thơ Quách Tấn trong cả hai thời kỳ trước và sau năm 1945.Thu gọn
-
Nhà thơ Quách Tấn có tự là Đăng Đạo, hiệu là Trường Xuyên, sinh ngày 04 - 01 – 1910 tại thôn Trường Định, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu. Bắt đầu từ tập thơ đầu tay "Một tấm lòng" xuất bản năm 1939, cho đến cuối đời, Quách Tấn đã xuất bản tất cả 14 tập thơ, hàng chục tập văn và một số tác phẩm dịch. Ông cũng viết chung cùng con trai là Quách Giao một số sách khảo cứu như: Nhà Tây Sơn, Võ nhân Bình Định, Đào Tấn và Hát bội Bình Định. Khác với nhiều tác giả Thơ Mới đương thời, Quách Tấn tìm về một hình thức cổ điển khi sáng tác các bài thơ của ông, đó là các bài Đường luật và Tứ tuyệt…Thu gọn
-
Trong chương trình Tìm trong kho báu lần trước, chúng tôi đã giới thiệu tới quý vị thính giả một phần di sản văn chương Yến Lan, chủ yếu tập trung vào các tác phẩm sáng tác giai đoạn trước 1945 của ông. Sự nghiệp văn học của Yến Lan còn nhiều thành tựu, nhiều tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn sau, được đông đảo bạn đọc yêu mến, trong đó phải kể đến di sản thơ tứ tuyệt gần 500 bài mà ông đã để lại. Chương trình hôm nay, chúng ta sẽ cùng đi tìm vẻ đẹp thi ca trong một số sáng tác tứ tuyệt của Yến Lan…Thu gọn
-
Nhà thơ Yến Lan (1916-1998) tên thật là Lâm Thanh Lang. Ông là thành viên trong nhóm Trường thơ loạn do Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử sáng lập vào năm 1937 – 1938, đồng thời ông là một trong những thi sĩ của nhóm thơ Bình Định “Bàn thành tứ hữu” gồm Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Yến Lan. Chương trình hôm nay cùng nghe bài viết Một buổi chiều chiêm bao ta đã thấy của nhà thơ, nhà báo Vương Tâm như một bản tổng kết về hành trình thơ Yến Lan…Thu gọn
-
Thơ Hàn Mặc Tử luôn tạo ra sức hút với mọi thế hệ độc giả, là vùng đất còn chứa nhiều bí ẩn, tiếp tục mời gọi các cây bút phê bình, khảo cứu và tìm tòi. Chương trình hôm nay, chúng ta tiếp tục tìm hiểu di sản văn chương Hàn Mặc Tử qua bài viết của tiến sĩ Trần Thiện Khanh, Phó Viện trưởng Viện Văn học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam…Thu gọn
-
Một trong những bài phê bình đầu tiên về thơ Hàn Mặc Tử là bài viết của Hoài Thanh trong tuyển tập Thi nhân Việt Nam. Dù những nhận xét về từng tập thơ cụ thể có khác nhau, song không thể phủ nhận vẻ độc đáo, riêng biệt lạ lùng của Hàn Mặc Tử, nhất là với tập Thơ điên. Hoài Thanh đã viết: “Một tác phẩm như thế ta không thể nói hay hay dở, nó đã ra ngoài vòng nhân gian, nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn. Ta chỉ biết ta đang đứng trước một người sượng sần vì bệnh hoạn, điên cuồng vì đã quá đau khổ trong tình yêu. Cuộc tình duyên ra đời với Hương thơm, hấp hối với tập Mật đắng, cho đến Máu cuồng và hồn điên thì đã chết thiệt rồi, nhưng khí lạnh còn tỏa lên nghi ngút”. Sau Hoài Thanh, các nhà phê bình thuộc các thế hệ kế tiếp còn tiếp tục khẳng định sự độc đáo của thế giới thơ, hồn thơ Hàn Mặc Tử…Thu gọn
-
Nhà thơ Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 tại làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Ông là một trong những cây bút nổi bật của dòng thơ lãng mạn Việt Nam, là một nhà thơ tài hoa, một cây bút có sức sáng tạo mạnh mẽ trong phong trào Thơ Mới. Sinh thời, Hàn Mặc Tử mới in một tập thơ duy nhất là tập Gái quê (1936). Những tập thơ sau Gái quê của ông chỉ được lưu truyền trong bạn hữu và những người yêu văn chương, gồm có: Thơ điên (gồm 3 tập: Hương thơm, Mật đắng, Máu cuồng và hồn điên), Xuân như ý, Thượng Thanh Khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội, Chơi giữa mùa trăng. Sau chặng đường đầu làm thơ Đường luật với tập Lệ Thanh thi tập, Hàn Mặc Tử đã chuyển sang phong cách hiện đại và góp phần đưa thơ trữ tình Việt Nam lên đỉnh cao mới. Đặc biệt ở giai đoạn sau Gái quê, Hàn Mặc Tử trình bày một hồn thơ độc đáo, lạ lùng chưa từng có trước đó và cũng không giống với bất cứ thi sĩ nào đương thời…Thu gọn
-
Trong chương trình lần trước, chúng tôi đã tìm hiểu về di sản văn chương Bích Khê qua tập thơ đầu tiên của ông tập "Tinh huyết", xuất bản năm 1939, cũng là tập thơ duy nhất được in khi ông còn sống. Sau khi Bích Khê qua đời tới nửa thế kỷ, gia đình ông mới công bố tiếp tập thơ thứ hai mang tên Tinh hoa, gây nhiều sửng sốt trong lòng bạn đọc cũng như giới nghiên cứu văn chương. Nếu Tinh huyết là cuộc phiêu lưu, tìm tòi, thử nghiệm với nhiệt thành tuổi trẻ, thì Tinh hoa là cuộc quay về với truyền thống, thể hiện độ chín chắn trong tâm hồn lẫn nghệ thuật của Bích Khê, trở về với cách nghĩ, điệu cảm quen thuộc nhưng với một tâm trạng con người thời đại mới….Thu gọn
-
Nhìn lại các thành tựu của thơ mới lãng mạn 1932-1945, nhà thơ Bích Khê là một trong những gương mặt đặc biệt chỉ sống trên dương thế 30 năm và sinh thời chỉ in một tập thơ duy nhất – tập Tinh huyết (1939). Bích Khê đã khẳng định một giọng điệu và phong cách độc đáo không trộn lẫn với bất kỳ ai. Trong chương trình, cùng nhìn lại di sản văn chương của ông....Thu gọn
-
Trong chương trình trước, chúng ta đã cùng tìm hiểu về chặng đường sáng tác thứ nhất của Nguyễn Tuân - thời kỳ trước 1945 với tập tác phẩm nổi tiếng “Vang bóng một thời” cùng một số tùy bút, tiểu thuyết tiêu biểu như Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn. Trong chương trình Tìm trong kho báu lần này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về chặng đường sáng tác thứ hai của Nguyễn Tuân - thời kỳ sau 1945...Thu gọn
-
Nhìn lại nền văn xuôi Việt Nam hiện đại thế kỷ 20, Nguyễn Tuân là gương mặt thật độc đáo, đặc biệt với các sáng tác trải dài trong cả ba giai đoạn: trước 1945, giai đoạn kháng chiến và sau 1975. Nếu như trước 1945, ông có những thành tựu ở cả ba thể loại: truyện ngắn, tùy bút và tiểu thuyết thì kể từ sau 1945, bút lực Nguyễn Tuân chủ yếu tập trung vào một thể loại duy nhất – tùy bút – mà ông gọi đó là một lối chơi độc tấu. Sau 80 năm nhìn lại “Vang bóng một thời vẫn thực sự là một đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân cũng đồng thời là một trong những tác phẩm nổi bật của văn xuôi Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Tập sách không quá dày, chỉ gồm 12 truyện ngắn và tùy bút nhưng lại mang trong đó một sức mạnh về văn tài Nguyễn Tuân, về tấm lòng của tác giả với nguồn cội và văn hóa truyền thống dân tộc...Thu gọn
-
Trong những sáng tác của Thạch Lam, đặc điểm nổi bật trong thi pháp truyện ngắn của ông đó là đặc điểm không gian nghệ thuật-một mặt quan trọng để nhà văn thể hiện tư tưởng và quan niệm nghệ thuật về con người.Trong chương trình, cùng tìm hiểu về nghệ thuật văn chương của nhà văn Thạch Lam qua góc nhìn độc đáo này…Thu gọn
-
Là một trong những cây bút chính của nhóm Tự lực văn đoàn, song văn phong của Thạch Lam vẫn "chảy" riêng biệt một dòng. Nhắc tới nhà văn Thạch Lam là nhắc tới những cống hiến quan trọng của ông ở thể loại truyện ngắn. Nhiều truyện ngắn của ông đã và đang được sử dụng trong chương trình ngữ văn trong nhà trường phổ thông và trở thành nổi tiếng suốt bao năm qua. Có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu như: Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan...Trong chương trình hôm nay cùng tìm hiểu về thế giới truyện ngắn của ông…Thu gọn
-
Tiêu Sơn tráng sĩ là tác phẩm có vị trí đặc biệt trong các sáng tác của Khái Hưng. Nó không chỉ là tiểu thuyết lịch sử duy nhất mà còn là tác phẩm có dung lượng lớn nhất trong các sáng tác của Khái Hưng. Cuốn tiểu thuyết gồm những chuyên đề xã hội, nghệ thuật, tình yêu. Tác phẩm như một mảnh vườn riêng mà nhà văn Khái Hưng giấu giấc mộng phiêu lưu của mình…Thu gọn
-
- Tìm hiểu về tiểu thuyết Trống Mái của nhà văn Khái Hưng qua bài biết của nhà phê bình Thụy Khê - Nửa chừng xuân là tiểu thuyết nổi tiếng trong nhóm các tác phẩm với đề tài hiện thực xã hội của Khái Hưng. Đứng về mặt niên biểu sáng tác, Nửa chừng xuân được công bố năm 1934, liền ngay sau Hồn bướm mơ tiên. Tác phẩm thể hiện một cái nhìn mới mẻ, đi trước thời đại của Khái Hưng về vấn đề gia đình và nữ quyền, đấu tranh không khoan nhượng với các hủ tục lạc hậu của xã hội cũ…Thu gọn
-
Khái Hưng (1896 - 1947) tên thật là Trần Khánh Dư, xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Cùng với Nhất Linh, ông là cây bút chính của Tự Lực Văn Đoàn. Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm đầu tay của Khái Hưng viết năm 1933, và cũng là tác phẩm đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn được xuất bản. Tác phẩm này có một vai trò vô cùng quan trọng để thúc đẩy phong trào sáng tác của cả nhóm, mở đường cho hàng loạt tác phẩm quan trọng tiếp theo…Thu gọn
-
Sau cuốn tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng, gắn với quá trình chuyển biến bút pháp của Nhất Linh, từ tiểu thuyết luận đề sang tập trung miêu tả thế giới nội tâm, tâm lý nhân vật đồng thời gửi gắm những tư tưởng, triết lý, Nhất Linh còn có hai bộ tiểu thuyết đáng chú ý nữa là Xóm Cầu Mới và Dòng sông Thanh Thủy. Trong đó, Xóm Cầu Mới tuy viết trước nhưng lại công bố sau và nó mãi là một tác phẩm còn dang dở. Dòng sông Thanh Thủy là bộ tiểu thuyết trường thiên duy nhất của Nhất Linh và cũng đồng thời là tác phẩm cuối cùng trong sự nghiệp viết văn của ông. Với Dòng sông Thanh Thủy, Nhất Linh đã lần đầu chọn một đề tài mới cho tiểu thuyết của mình. Đó là đề tài chính trị, cụ thể là viết về thời kỳ cách mạng Việt Nam tại Trung Hoa…Thu gọn
-
Trong chương trình trước, chúng ta đã cùng tìm hiểu về sự nghiệp văn học Nhất Linh trong chặng đầu tiên, qua hai cuốn tiểu thuyết mang phong cách luận đề: Đoạn tuyệt và Lạnh lùng. Từ sau Lạnh lùng, Nhất Linh bắt đầu có chuyển biến quan trọng về mặt bút pháp tiểu thuyết. Thay vì chú trọng vào cốt truyện như những tiểu thuyết thời kỳ đầu, Nhất Linh bắt đầu đi sâu vào miêu tả nội tâm, khắc họa tâm lý nhân vật, thể hiện quá trình diễn biến của tâm trạng gắn với những biến cố của số phận, cuộc đời nhân vật. Tiểu thuyết Đôi bạn chính là tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự chuyển biến này trong bút pháp của Nhất Linh…Thu gọn
-
Trong giới văn chương Việt Nam, nhà văn Nhất Linh (tên thật là Nguyễn Tường Tam) là một tên tuổi lớn. Ông từng lập ra nhóm Tự Lực văn đoàn và là một cây bút chính của nhóm. Các tác phẩm chính của nhà văn Nhất Linh đa phần phản ánh hiện thực xã hội và lãng mạn rất được yêu thích: Gánh hàng hoa, Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Nho phong, Anh phải sống, Thương chồng...Nhân dịp kỷ niệm tròn 60 năm ngày mất của Nhất Linh, cùng nhìn lại về di sản văn chương của ông…Thu gọn
-
Những cống hiến của nhà văn Nguyên Hồng giai đoạn trước Cách mạng không chỉ nằm ở hai thể loại tiểu thuyết và hồi ký, ông còn nhiều truyện ngắn cảm động được đăng tải rải rác trên báo từ năm 1936 cho đến những năm về sau. Gần đây các truyện ngắn tiêu biểu trước năm 1945 của Nguyên Hồng được tập hợp lại trong tuyển tập “Tết của tù đàn bà” (NXB Văn học 2019). Tuyển tập là tập hợp 15 truyện ngắn tiêu biểu của Nguyên Hồng được sáng tác trong giai đoạn từ năm 1937 đến năm 1945 cho người đọc cảm nhận rõ ràng hơn về giá trị nhân đạo của nhà văn…Thu gọn
-
Trong những gương mặt của dòng văn học hiện thực phê phán nửa đầu thế kỷ XX, Nguyên Hồng được mệnh danh là nhà văn của phụ nữ và trẻ em với một chủ nghĩa nhân đạo thống thiết lay động trái tim hàng vạn độc giả bằng chính những cay đắng, bất hạnh mà ông đã từng trải qua trong tuổi thơ của mình. Nhà văn Nguyên Hồng (1918 - 1982) tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ra và lớn lên ở Nam Định, Nguyên Hồng mồ côi cha từ năm 12 tuổi. Mẹ đi thêm bước nữa, Nguyên Hồng lớn lên bên cạnh bà và cô nên hầu như thiếu tình yêu thương ngay từ nhỏ. Năm 16 tuổi khi mới học hết bậc tiểu học, ông theo mẹ ra Hải Phòng kiếm sống trong các xóm chợ nghèo. Lớn lên trong sự hắt hủi và thiếu thốn tình thương của mẹ, tuổi thơ ông gắn bó với những người ở đáy cùng xã hội. Vì vậy, trong những tác phẩm của ông luôn viết về những con người nghèo khổ và có hoàn cảnh éo le, tiêu biểu ở tiểu thuyết “Bỉ vỏ” và hồi ký “Những ngày thơ ấu”…Thu gọn
-
- Tìm hiểu về giá trị của tiểu thuyết “Làm đĩ” (xuất bản năm 1936) của Vũ Trọng Phụng qua bài viết “Tiếng nói thức tỉnh về đạo đức”. - Không chỉ có những đóng góp ở hai thể loại tiểu thuyết và phóng sự, Vũ Trọng Phụng còn có những đóng góp quan trọng ở thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng chỉ chừng hơn hai chục cho tới gần ba chục chuyện ngắn nhưng ông đã tạo dựng ra một giọng điệu riêng, khó trộn lẫn, ghi dấu những cống hiến của ông ở mảng sáng tác này. Nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân đã có những chia sẻ về di sản truyện ngắn Vũ Trọng Phụng cũng như nghệ thuật sáng tác của ông…Thu gọn
-
- Trong gần 90 năm qua đã có vô số các công trình, bài viết tập trung nghiên cứu bình luận về các sáng tác của Vũ Trọng Phụng, trong đó, các thế hệ đi sau luôn cố gắng tìm ra một góc nhìn khác, một cách tiếp cận khác để đi vào thế giới văn chương của ông. Cùng lắng nghe bài viết của tiến sĩ Vũ Thị Trang: “Vũ Trọng Phụng, niềm tin và sự nhạo báng dưới bóng Thiên Hư”… - Bên cạnh những đóng góp ở thể loại tiểu thuyết, Vũ Trọng Phụng còn có đóng góp quan trọng ở thể loại phóng sự với hàng loạt tác phẩm gây tiếng vang mạnh mẽ (Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Cạm bẫy người, Lục sì)… Đương thời, ông được suy tôn là ông vua phóng sự đất Bắc. Nhà phê bình văn học Nguyễn Hoài Nam chia sẻ về các tác phẩm phóng sự của Vũ Trọng Phụng…Thu gọn
-
“Giông tố” là tiểu thuyết lừng danh của nhà văn, nhà báo Vũ Trọng Phụng, đương thời gây tiếng vang lớn và cũng được Điện Ảnh Việt Nam dựng thành phim (năm 1991), một áng văn đại diện cho rất nhiều tư tưởng tiến bộ và thái độ phê phán của nhà tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. “Giông tố” đã lật tẩy hết những bất công, đểu giả, thối nát và hết sức vô nghĩa của một xã hội mà đồng tiền có thể chi phối được tất cả. Cùng tìm hiểu giá trị của thiên tiểu thuyết này qua bài viết của tác giả Tiểu Mai…Thu gọn
-
Vũ Trọng Phụng là nhà văn, nhà báo nổi tiếng của nước ta ở đầu thế kỷ 20. Ông sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912 tại Hà Nội, quê ở làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Vũ Trọng Phụng viết nhiều thể loại: truyện ngắn, kịch, phóng sự, tiểu thuyết... và ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp nhất định. Nói đến những tác phẩm tiêu biểu của ông, phải kể đến các tiểu thuyết “Giông tố”, “Số đỏ”, “Vỡ đê”, “Làm đĩ”; các phóng sự: “Cạm bẫy người”, “Kỹ nghệ lấy Tây”, “Cơm thầy cơm cô”, “Lục xì”... Vũ Trọng Phụng mất ngày 13/10/1939 tại Hà Nội, khi mới 27 tuổi. Tuy thời gian cầm bút không dài nhưng ông đã để lại hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch và một số bài viết phê bình, tranh luận văn học cùng hàng trăm bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hoá…Trong chuyên mục hôm nay cùng lắng nghe bài viết của nhà phê bình văn học Thụy Khuê về sự tha hóa của con người được mô tả trong văn chương Vũ Trọng Phụng…Thu gọn
-
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1772 - 1822), quê gốc ở Nghệ An, sinh trưởng ở Thăng Long. Tư chất thông minh, bản lĩnh, trải đời, ưa sướng họa thơ ca, Hồ Xuân Hương được xem là một tài nữ nổi tiếng thời bấy giờ. Di tác của bà hoàn toàn là thơ, trong đó mảng Nôm có phần đặc sắc hơn. Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương hầu hết ý tưởng táo bạo, thách thức các chuẩn mực đạo đức phong kiến. Cũng từ các sáng tác của bà hiển hiện thực trạng xã hội ta ở cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Ngày 3/12 vừa qua, tại Tp. Vinh, tỉnh Nghệ An, Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam trọng thể tổ chức Lễ vinh danh và kỷ niệm 250 năm sinh, 200 năm mất của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Nằm trong chuỗi sự kiện trang trọng này, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Nghệ An cùng phối hợp với Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế: “Nữ sĩ Hồ Xuân Hương - Danh nhân văn hóa và giá trị di sản”. Thái Dương và Trường Ca - Phóng viên Đài Phát thanh và Truyền hình Nghệ An đã có những phản ánh về hội thảo này…Thu gọn
-
Nửa cuối thế kỷ 19, hưởng ứng Chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, nhiều quan lại, nho sĩ ở vùng đất Quảng Ngãi đã phất cờ khởi nghĩa. Điều đặc biệt ở chỗ, chính các lãnh tụ Cần Vương cũng đồng thời là các tác gia tiêu biểu của dòng văn học yêu nước Cần Vương. Trong nghiên cứu phác thảo diện mạo văn học yêu nước Cần Vương ở Quảng Ngãi, nhà nghiên cứu Lê Hồng Khánh điểm lại những sáng tác đặc sắc thể hiện nội dung dòng văn học chủ đạo của văn đàn Quảng Ngãi giai đoạn này…Thu gọn
-
Nhà thơ, nhà yêu nước Phan Văn Trị được nhắc nhiều nhất với tư cách là tác giả những bài thơ xướng họa có tính chất bút chiến: Họa tự thuật (10 bài), Tôn Phu nhân quy Thục, Từ Thứ quy Tào, Hát bội…. Đây là mảng thơ thể hiện tài năng và tấm lòng của một nhà nho luôn giữ trọn tiết tháo, thẳng thắn phê phán thực trạng hành vi dao động, cộng tác với thực dân Pháp của một bộ phận trí thức thời bầy giờ. Trước khi Thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường cùng sinh hoạt trong nhóm Bạch mai Thi xã – một tao đàn nổi tiếng ở đất Gia Định xưa. Thời thế thay đổi, Tôn Thọ Tường qua bao lận đận đã quyết định ra cộng tác làm việc cho chính quyền Pháp, cụ Cử Trị lại chọn cuộc sống thanh bần, làm nghề gõ đầu trẻ ở chốn thôn quê. Tuy vậy, tâm trí Phan Văn Trị luôn dõi theo sự hưng vong của đất nước. Tôn Thọ Tường trước sự công kích của các nhà nho yêu nước đã sáng tác một loạt các bài thơ lên tiếng thanh minh cho hành động cộng tác cho Pháp mà ông cho rằng cực chẳng đã. Không thể im lặng trước hành động này, Phan Văn Trị cũng lần lượt có các bài thơ họa lại nhằm góp tiếng nói thẳng thắn bẻ gãy lý lẽ cùa người bạn thơ một thời…Thu gọn
-
Phan Văn Trị sinh năm 1830 tại thôn Hưng Thạnh, huyện Bảo An, phủ Hoàng An, trấn Vĩnh Thanh (nay là xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre). Ông đỗ cử nhân khoa Kỷ Dậu năm 1849 tại trường thi Gia Định, nhân dân trong vùng gọi ông là cử Trị. Buồn nỗi thời cuộc rối ren, Phan Văn Trị không ra làm quan mà về dạy học ở làng Bình Cách (nay thuộc xã Tân An, tỉnh Long An), sau rời về Phong Điền, tỉnh Cần Thơ vừa dạy học, bốc thuốc, chữa bệnh, làm thơ cho đến cuối đời. Phan Văn Trị nổi tiếng trong cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường cũng là bạn thơ trong nhóm Mai Thi Xã nhưng sau này ra làm việc cho thực dân Pháp. Thơ ông được người đương thời tán tụng và được lưu truyền rộng rãi. Phan Văn Trị thuộc hàng ngũ những nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng văn học yêu nước chống xâm lược thời cận đại bên cạnh Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Quang Bích…Thu gọn
-
Là nhà hoạt động chính trị xã hội, nhà giáo dục, nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, nhà sử học có ý thức trách nhiệm cao, Nguyễn Thông có những đóng góp rất tích cực cho đất nước ta giai đoạn nửa cuối thế kỷ thứ 19. Cuộc đời của ông xác lập tư thế một nhà nho hành đạo trong thời đại mới, không chỉ theo đuổi lý tưởng khoa cử, trung quân ái quốc mà còn tích cực tham gia công cuộc kháng Pháp đem nhiệt huyết và tài năng ra giúp nước, giúp đời. Cũng như nhiều nhà nho cùng thời, qua các chước tác, nhà thơ Nguyễn Thông gửi gắm tâm sự cá nhân đặc biệt là tấm lòng với cố hương. Chương trình hôm nay, tiếp tục đi sâu vào những suy tư trong ngòi bút và hơi thở của nhà thơ, nhà nho Nguyễn Thông, cảm nhận cụ thể về mảng thơ mang tâm sự đời thường của ông. Đây cũng là một xu thế sáng tác gắn với tâm lý của các nhà nho cũng như chuyển động của xã hội nước ta vài thập niên cuối thế kỷ thứ 19…Thu gọn
-
Cuộc đời làm quan của Nguyễn Thông với triều Nguyễn tuy không giữ được những chức vụ cao để đóng góp một cách hiệu quả hơn trong công cuộc cứu nước giúp dân nhưng lại là cuộc trải nghiệm thực tế một cách phong phú. Dẫu trải nhiều chức vụ trong nhiều lĩnh vực, ông rốt cuộc và cơ bản vẫn là một người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục không chỉ với thời gian lâu nhất mà còn tạo ra được những thay đổi tuy nhỏ nhưng chính nó đã thể hiện một cách nhìn, một kiểu học ở Nam Bộ mà trước ông Sùng Đức tiên sinh Võ Trường Toản là người đã khơi nguồn. Cùng tìm hiểu về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của nhà thơ, nhà nho yêu nước Nguyễn Thông, cùng soi chiếu khía cạnh, tầm vóc tri thức thể hiện qua các sáng tác của ông…Thu gọn
-
Trong gần 60 năm cuộc đời, nhà nho Nguyễn Thông thể hiện sự gắn bó mật thiết với đời sống của người dân lao động nơi ông sinh ra, lớn lên và tại chức quan lại. Trong vai trò một trí thức yêu nước, ông đã đi sâu cụ thể vào các mặt của xã hội nhằm hướng tới việc cải thiện đời sống người dân. Trong chương trình hôm nay, cùng tiếp cận cuộc đời và tâm huyết của ông từ góc độ xã hội học với những đóng góp về tư tưởng đi trước thời đại...Thu gọn
-
Nhà thơ Nguyễn Thông (tên khác là Nguyễn Thới Thông, tự Hy Phần, và nhiều biệt hiệu: Kỳ Xuyên, Độm Am, Đạm Trai) sinh năm 1827 tại phủ Tân An, tỉnh Gia Định, nay là xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Long An. Cụ Nguyễn Thông đỗ cử nhân năm 1849, từng làm quan, giữ nhiều chức vụ như: Án sát Khánh Hòa, Bố Chánh Quảng Ngãi, Bố Chánh Bình Thuận. Cuộc đời làm quan của Nguyễn Thông trải qua nhiều sóng gió, truân chuyên bởi đức tính thẳng ngay, nên nhiều kẻ xu nịnh, vu cáo, hãm hại. Cụ mất vào năm 1884, thọ 57 tuổi, được an táng tại phường Phú Hài, TP Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận ngày nay. Về sự nghiệp nghiên cứu, cụ Nguyễn Thông để lại những bộ sử liệu quan trọng là “Khâm định Nhân sự kim giám”, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” và “Việt sử thông giám cương mục khảo lược”. Về sáng tác thơ văn, đến nay, giới nghiên cứu đã sưu tầm được 76 bài thơ, 25 bản văn, 6 bản sớ điều trần của cụ nằm trong các tập: “Độm Am thi văn tập”, “Kỳ Xuyên thi văn sao”, “Kỳ Xuyên công độc”, “Dưỡng chính lục”...Thu gọn
-
Xã hội phong kiến vốn nhiều định kiến khắt khe đã hạn chế nữ quyền khiến phụ nữ trở nên yếu thế, bị động, thậm chí bị tước đoạt nhiều quyền tự do cơ bản. Thế nhưng trong bối cảnh ấy đã có nhiều tiếng thơ của các nhà nho, nhà thơ tiến bộ đòi quyền sống, tôn vinh và trân trọng những nỗ lực và phẩm tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Chương trình hôm nay, thưởng thức tiếng thơ, nhiều tìm tòi độc đáo mới lạ thể hiện cảm xúc trân trọng phụ nữ và tình yêu của các tác giả giai đoạn văn học trung đại: Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Tú Xương, Phạm Thái…Thu gọn
-
Kinh thành Thăng Long là nơi ghi dấu những chiến công hiển hách của ba triều đại Lý, Trần, Lê. Sau đó tiếp tục là kinh đô của Nhà Mạc, Nhà Lê Trung Hưng. Giai đoạn vàng son ấy kéo dài từ đầu thế kỷ 11 đến gần cuối thế kỷ 18. Trong biến thiên lịch sử từ thời Tây Sơn, Quang Trung Nguyễn Huệ định đô ở Phú Xuân, Huế, Thăng Long chỉ còn là Bắc Thành. Kinh đô một thời đã là cố đô, rồi từ Chấn thành thu nhỏ thành Tỉnh thành. Đến thế kỷ thứ 19, Thăng Long xưa chính thức mang tên Hà Nội. Qua thăng trầm lịch sử là thủ đô nước Việt ta ngày nay, tên Thăng Long chỉ còn là trong ký ức và sử sách. Chính vì hiện diện trong tâm tưởng người nhiều thời, nhiều đời với một vị thế thiêng liêng như vậy nên cảm hứng Thăng Long hoài cổ là mạch nguồn xuyên suốt trong thơ ca, đặc biệt từ giai đoạn cuối thế kỷ thứ 18 đến đầu thế kỷ 20. Chương trình hôm nay điểm qua những sáng tác đặc sắc trong dòng chảy “hướng vọng kinh đô”…Thu gọn
-
Giai đoạn nửa cuối thế kỷ 19, đất nước ta phải đương đầu với họa xâm lăng của Thực dân Pháp. Song song với quá trình đấu tranh là sự phân hóa giai cấp trong xã hội, là những đổi thay trong văn hóa tư tưởng, văn hóa kỹ thuật. Văn học lúc này cũng có sự phân hóa về nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật từ đó hình thành các khuynh hướng sáng tác riêng biệt, phản ảnh những vấn đề trung tâm nóng hổi của thời đại, cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống thực dân Pháp. Nhiều tác phẩm yêu nước ra đời đã ghi lại những biến cố lớn lao của đất nước…Thu gọn
-
Thời thế và những biến động lịch sử có những ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng của các tác giả cũng như khuynh hướng sáng tác văn chương. Chương trình hôm nay đặt trong tương quan so sánh giữa quan điểm và tác phẩm của hai tác giả cùng sinh năm 1825 là Đặng Huy Trứ - một nhân vật với những giai thoai thú vị, một nhà cải cách, ông tổ nghề nhiếp ảnh, người đầu tiên đưa kỹ nghệ đóng tàu phương Tây du nhập vào nước ta, đồng thời cũng là tác giả của nhiều tác phẩm thơ ca trải lòng đặc sắc, và tác giả Tôn Thọ Tường – một con người bị những yếu tố thời thế tác động, ít nhiều điều tiếng do khuynh hướng chính trị. Qua đó thấy được chí, dũng, con người, cũng như nhìn nhận về đóng góp trong sáng tác thơ ca…Thu gọn
-
Đại thi hào, Doanh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai (1380- 1442) là một nhà yêu nước, tác giả lớn, cây đại thụ trong trong lịch sử văn học dân tộc nước ta. Những cống hiến của ông với đất nước được thể hiện rõ nét qua cuộc đời và di sản để lại cho hậu thế. Nhân kỷ niệm 580 năm ngày mất của Đại thi hào Nguyễn Trãi (19/09/1442-19/09/2022), cùng điểm lại những đóng góp lớn lao của ông trong sáng tác thơ ca bằng Quốc âm…Thu gọn
-
Sinh trưởng trong một gia đình truyền thống khoa bảng, là con cháu quan lại ở đất Gia Đinh xưa, Tôn Thọ Tường sớm có sở trường về văn chương. Thế nhưng học tài thi phận, lại bị những yếu tố thời thế tác động, ông mang tâm trạng bất đắc chí hồi hương, chiêu tập văn nhân lập nên Bạch Mai thi xã. Tao đàn chỉ mới hoạt động một thời gian ngắn thì gián đoạn do sự chiếm đóng của thực dân Pháp. Thời thế gây nên những sự biến động phân hóa về xu hướng chính trị của các thành viên Bạch Mai thi xã, trong đó có Tôn Thọ Tường. Cuộc đời nhiều trắc trở và ít nhiều điều tiếng do khuynh hướng chính trị, tuy nhiên, trong sáng tác, Tôn Thọ Tường được đánh giá là cây bút thơ tài hoa…Thu gọn
-
Theo chính sử, năm 1070 vua Lý Thánh Tông cho thành lập Văn Miếu. Đến năm 1076, vua Lý Nhân Tông lại cho lập Quốc Tử Giám, trường học chính thức ở Việt Nam. Nền giáo dục của nước ta bắt đầu từ đó. Dưới thời phong kiến, nhiều nhà giáo danh tiếng của nước ta vốn xuất thân là những trạng nguyên, tiến sĩ được mời dạy các hoàng tử, con quan, lại có người đỗ đạt nhưng không ra làm quan mở trường dạy học tại gia. Nhận thức được sự quan trọng cần thiết của giáo dục, việc dạy, học và thi cử đã trở thành đề tài thường trực trong sáng tác của nhiều tác giả giai đoạn trung đại. Bên cạnh việc điểm lại một số vị danh nho lỗi lạc, những nhà sư phạm có những đóng góp lớn lao cho nền giáo dục, cùng thưởng thức những sáng tác đặc sắc viết về sự học và thi cử thời phong kiến và buổi giao thời…Thu gọn
-
Đất Gia Định xưa quy tụ nhiều nhà nho, danh tướng, văn nhân tài tử học rộng tài cao với những trước tác và công lao còn lưu trong sử sách. Trong lớp người được ghi công đầu có thầy Võ Trường Toản, ngoài sự nghiệp trồng người, thầy Võ Trường Toản đã có công đào tạo ba nhà thơ lớn cho đất Gia Định xưa còn gọi là Gia Định Tam Gia thi và nhiều kẻ sĩ khác, đồng thời ông còn là một nhà thơ. Nhưng trước tác của nhà thơ gần như thất lạc toàn bộ, trong tàng thư còn lưu giữ một bài phú hoài cổ với 24 đối câu…Thu gọn
-
Danh tướng Mạc Thiên Tích, người đứng đầu Tao dàn Chiêu Anh Các ở Hà Tiên sinh thời được ngợi ca tính tình trung hậu, chân thật, nhân từ, nghĩa dũng, đầy đủ tài đức, thông kinh sử, không có sách nào không đọc, thêm vào lại giỏi tài thao lược hậu đãi hiền tài. Nhờ tài đức hơn người ông đã trở thành người dẫn đường mẫu mực, chủ xướng và thúc đẩy sự ra đời các tác phẩm cũng như lan tỏa di sản thơ văn của Chiêu Anh Các. Chương trình hôm nay đi vào cụ thể những dấu ấn và ảnh hưởng của Chiêu Anh Các trong tâm thức tiếp nhận của đương thời và hậu thế.…Thu gọn
-
Sự ra đời và phát triển của các Tao đàn thơ ca, các văn hội có những đóng góp quan trọng vào diện mạo của giai đoạn văn học trung đại. Không chỉ là sự tập hợp, cổ động phong trào sáng tác, từ các Tao đàn, văn hội này đã nổi lên những xu hướng thơ văn, những tên tuổi tinh hoa, trụ cột và làm rạng danh nền văn học dân tộc. Cùng tìm hiểu xuất xứ và bản sắc của Chiêu Anh Các - một Tao đàn nổi bật ở đất phương Nam thế kỷ 18…Thu gọn
-
Từ trước tới nay, trong hầu hết tư liệu cổ và quan niệm của các nhà nghiên cứu văn học trung đại đều cho rằng người đứng đầu Tao đàn nhị thập bát tú thời Hồng Đức là vua Lê Thánh Tông, hai vị phó nguyên súy được cho là hai danh thần Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận. Thế nhưng, lật giở lại, trong sách “Kiến văn tiểu lục”, một tác phẩm được nhà bác học Lê Quý Đôn soạn xong vào năm Cảnh Hưng thứ 38 (năm 1777) có ghi lại rằng: “Sái Thuận lúc đầu là Tao đàn sái phu sau được bổ sung làm Phó nguyên suý”. “Kiến văn tiểu lục” được xem là một tác phẩm có giá trị về văn học, địa lý, lịch sử và hình thái ý thức người Việt xưa qua các thời Lý, Trần, Lê. Căn cứ vào tính xác đáng của tác phẩm này, có thể thấy có một nhân vật tên là Sái Thuận từng giữ chức Phó nguyên súy hội Tao đàn dưới thời vua Lê Thánh Tông…Thu gọn
-
- Nhiều vị hoàng đế, nho tướng cũng như võ tướng thời thịnh Trần đã để lại những áng thơ có giá trị cao về mặt nội dung, nghệ thuật, nêu cao được cảm hứng yêu nước, cảm hứng tự hào dân tộc. Ở một khía cạnh khác, cho dù đang ở ngôi cao chín bệ hay khi chọn ẩn dật chốn sơn lâm, họ đều thể hiện con người nghệ sĩ với những trăn trở về nỗi niềm nhân sinh. Chương trình hôm nay cùng ngẫm nghĩ về ý thức phản tỉnh- một nét đẹp nhân văn trong thơ thời Trần… - Phân tích nội dung đặc sắc của tác phẩm Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.Thu gọn
-
Trong các triều đại phong kiến ở nước ta, thời nhà Trần được xem là hưng thịnh về mọi mặt, đặc biệt có sự phát triển rực rỡ về văn hóa, thơ ca, nghệ thuật. Dù phải trải qua ba lần đối mặt với đội quân xâm lược Nguyên – Mông hung hãn nhưng vua tôi, tướng lĩnh và dân chúng dưới triều Trần đều chung sức đồng lòng và gặt hái được chiến công hiển hách. Chương trình hôm nay đi sâu tìm hiểu về âm hưởng chủ đạo của thơ ca thời thịnh Trần…Thu gọn
-
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu (cụ Đồ Chiểu) không chỉ là nhà thơ mà còn là nhà giáo, thầy thuốc, nhà văn hóa tầm vóc của dân tộc ta. Tháng 11 năm 2021, Tổ chức Giáo dục – Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức đưa Nguyễn Đình Chiểu vào danh sách Danh nhân văn hóa thế giới và quyết định cùng nước ta tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của cụ Đồ Chiểu (01.7.1822 – 01.7.2022). Chương trình hôm nay một lần nữa góp tiếng nói tôn vinh giá trị truyền đời của tác phẩm cũng như tư tưởng, nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu.Thu gọn
-
Văn Huệ Vương – Trần Quang Triều là chủ soái, linh hồn của Bích Động thi xã. Trong các đàm đạo, xướng họa thơ văn của thi xã, ông vừa đóng vai trò là người chủ trì vừa thể hiện tài năng, khí chất hơn người. Bởi thế, trong nhiều tứ thơ các thành viên chủ chốt của Bích Động thi xã như Nguyễn Ức, Nguyễn Sưởng đều thấp thoáng hình ảnh vị chủ soái tài hoa cũng như bày tỏ niềm kính phục với tài năng, phẩm cách của ông. - Nhà nghiên cứu Vũ Bình Lục tiếp tục có những diễn giải về vai trò, chỗ đứng trên văn đàn trong lịch sử văn học của thi xã đóng ở khuôn viên chùa Quỳnh Lâm, Quảng Ninh… - Truyện cũ, tích xưa: Soi sáng đức độ của nhà giáo Chu Văn An, một thi nhân nổi tiếng thời vãn Trần.Thu gọn
-
Trở lại với nội dung sáng tác văn thơ thời vãn Trần cũng như hoạt động của Bích Động thi xã, cùng điểm qua di sản thơ văn của những tên tuổi tiêu biểu như nhà thơ, danh sỹ Nguyễn Ức, Nguyễn Trung Ngạn, nhà giáo Chu Văn An, vua Trần Minh Tông…Thu gọn
-
Thời Lý – Trần ở nước ta được xem là giai đoạn hưng thịnh của Phật giáo. Đó cũng là thời kỳ ra đời dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử với những tên tuổi lớn của văn học trung đại. Cùng tìm về cội nguồn những trung tâm Phật giáo, nơi phát tích dòng thiền và những nhóm phái văn học đặc sắc thời Trần…Thu gọn
-
Từ trước đến nay, nhiều nghiên cứu về văn học thời trung đại vẫn cho rằng Tao đàn nhị thập bát tú thời vua Lê Thánh Tông là hội thơ đầu tiên của nước ta. Trên thực tế, trước đó rất lâu, từ thời nhà Trần, đã có sự xuất hiện của một thi xã mang tên Bích Động do danh tướng Trần Quang Triều sáng lập nên. Chương trình hôm nay có những giải mã về thi xã với các thành viên đều là những danh nho, danh tướng thời vãn Trần…Thu gọn
-
Những góc nhìn cận cảnh vào di sản thơ văn của các hoàng đế triều Nguyễn – Đồng thời nối dài ra phong trào sáng tác ở làng xã cùng sự ra đời, phát triển của các văn hội trong xã hội phong kiến...Thu gọn
-
Văn học cung đình là bộ phận sáng tác văn học của vua, chúa, quý tộc, hoàng thân quốc thích, cung nữ, xuất hiện trong không gian cung đình mang đậm nhân sinh quan, thế giới quan của triều đình đương thời. Đây cũng là dòng trung tâm chủ lưu của văn học Việt Nam thời trung đại. Trong quãng thời gian mười thế kỷ, văn học trung đại đã ghi dấu ấn một nền khoa bảng bề thế. Nhiều tác giả danh tiếng đồng thời là những danh nho đỗ đạt cao ra giúp nước, giúp đời. Qua từng triều đại, cùng với các vị hoàng đế, các vị danh nho này góp phần gây dựng phong trào sáng tác và xướng họa thơ văn trong cung đình. Chương trình hôm nay nhận diện một số đặc điểm của dòng văn học chủ lưu này của giai đoạn trung đại…Thu gọn
-
Danh sĩ Đỗ Nhuận sinh năm 1446, người xã Kim Hoa, huyện Kim Hoa, thừa tuyên Kinh Bắc, nay thuộc thôn Bạch Đa, xã Kim Hoa (Mê Linh - Hà Nội). Theo các tư liệu lịch sử, ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình như: Đông các Hiệu thư, Hàn lâm viện Thị độc, Thượng thư, Đông các đại học sĩ. Năm 1495, vua Lê Thánh Tông sáng lập Hội Tao đàn Nhị thập bát tú, Đỗ Nhuận và Thân Nhân Trung được phong làm Phó nguyên soái, mời dự các buổi bình thơ của vua. Đánh giá về Danh sĩ Đỗ Nhuận, nhà sử học Phan Huy Chú xếp ông là một trong mười tám người phò tá có công lao, tài đức thời Lê sơ. Nhóm sử quan biên soạn “Đại Nam nhất thống chí” ghi nhận Đỗ Nhuận là một trong những nhân vật tiêu biểu dưới thời Lê của tỉnh Bắc Ninh xưa…Thu gọn
-
Tao đàn nhị thập bát tú vốn xưa nay vẫn được dùng để chỉ hội thơ của Lê Thánh Tông mà ông là Nguyên súy hay Hội chủ. Trong chương trình, cùng đi vào chính sử để giải mã hoạt động và sức ảnh hưởng của hội nhóm thi ca mang tính chất cung đình dưới một triều đại thịnh trị bậc nhất trong lịch sử phong kiến nước ta …Thu gọn
-
Giai đoạn Trung đại đã cống hiến cho nền văn học dân tộc nhiều tác gia lớn, nhiều tác phẩm có giá trị, bên cạnh đó là sự xuất hiện phát triển của các nhóm tác giả, các tao đàn mà dấu ấn còn lưu lại sâu đậm tới hôm nay. Cùng đi vào tìm hiểu Tao đàn Nhị thấp bát tú thời Hồng Đức với vị Nguyên soái lừng lẫy Lê Thánh Tông…Thu gọn
-
Thời kỳ làm Tổng binh xứ Hưng Hóa, một vùng đất kéo dài từ Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Sơn La đến Hòa Bình ngày nay, Nguyễn Gia Thiều thường tranh thủ từ vùng núi rừng hiểm trở về nhà riêng ở gần hồ Tây để sáng tác và đàm đạo cùng anh em, bạn hữu. Tương truyền, ông có đến mười một em trai, hai mươi em gái, trong đó có bốn người em trai cùng chung niềm say mê với thơ ca. Ông cùng các em lập nên Tao đàn Tứ Trai. Thi đàn gia đình gồm Nguyễn Gia Thiều tên hiệu là Tâm Thi Viện Tử được tôn là Thi Nguyên. Bốn người em trai là Kỳ Trai Nguyễn Gia Cơ, Hòa Trai Nguyễn Gia Diễm, Mục Trai Nguyễn Gia Xuyến, Thanh Trai Nguyễn Gia Tuyên lấy tên hiệu lần lượt là Thi Đề, Thi Xích, Thi Cầm, Thi Thược.Thu gọn
-
Khi nhà Tây Sơn lên cầm quyền, vua Quang Trung – Nguyễn Huệ nhờ quyết sách trọng dụng hiền tài, kể cả những quan lại dưới triều vua Lê – Chúa Trịnh nên đã chinh phục được nhân sĩ, thức giả Bắc Hà, vốn trước đó có cái nhìn ít nhiều thiếu thiện cảm. Cũng từ đây, dưới ánh sáng của một triều đại mới, các tác phẩm văn học phong phú về thể loại như thơ phú chữ Hán, chữ Nôm, Văn tế, Hịch, Tiểu thuyết lịch sử, Chiếu, Biểu... đã ra đời và ghi dấu ấn trong dòng văn học của dân tộc.Thu gọn
-
Cuối thế kỷ 18, thời kỳ gắn với những biến động lịch sử, sự tồn tại song song của nhiều chính thể, văn học vẫn không ngừng phát triển. Nhiều tác giả lỗi lạc xuất hiện trong giai đoạn này với những di sản thơ văn giá trị. Trong đó, có thể khẳng định dưới triều Tây Sơn, tồn tại từ năm 1771 đến năm 1801, văn học nghệ thuật có sự phát triển nở rộ. Dù sau này triều Nguyễn đã mạnh tay xóa bỏ ảnh hưởng của nhà Tây Sơn trong xã hội nhưng qua những sưu tầm, khám phá, tìm lại khẳng định thời kỳ Tây Sơn có những cống hiến quan trọng cho nền văn học dân tộc …Thu gọn
-
Từ trước đến nay, tác phẩm Phan Trần vẫn được xem như là một truyện thơ khuyết danh được dự đoán ra đời đầu thế kỷ 19. Cho đến gần đây, nhiều nhà nghiên cứu vào cuộc và cho rằng truyện thơ lấy bối cảnh đời nhà Tống ở Trung Quốc thực chất là sáng tác chính danh và tác giả chính lànNhà thơ, danh sĩ Nguyễn Huy Lượng. Những diễn giả của tác giả Đoàn Xuân Kiên làm rõ điều đó…Thu gọn
-
Vốn đỗ đạt rồi ra làm quan tại thời Vua Lê, Chúa Trịnh; dưới triều Tây Sơn, Nguyễn Huy Lượng vẫn được tin dùng giữ chức quan Hữu thị lang Bộ Hộ, lo việc lao động sản xuất, thuế khóa. Từ bé đã nổi tiếng thần đồng, khi trưởng thành thông hiểu ngân sách, Nguyễn Huy Lượng để lại cho đời sau những tác phẩm giá trị. Bên cạnh 100 bài thơ cung oán, Nhà thơ, Danh sỹ Nguyễn Huy Lượng còn nổi tiếng với bài phú ca tụng hồ Tây gồm 86 liên, độc vận. Dụng ý của tác giả là mượn cảnh Tây Hồ để tán tụng sự nghiệp và công đức của nhà Tây Sơn. Cũng từ bài phú này đã khơi mào cuộc bút chiến nổi tiếng giữa hai danh sỹ, nhà thơ Nguyễn Huy Lượng với Phạm Thái. Khi đọc được “Tụng Tây Hồ phú” của Nguyễn Huy Lượng, Danh sĩ Phạm Hồng Thái đã viết một bài phú hoạ lại (cùng số câu, cùng vần), gọi là “Chiến tụng Tây Hồ”. Tác phẩm vừa hoạ lại, vừa đả kích những nội dung trong bài phú của Nguyễn Huy Lượng. Hai bên đối lập, một bên là phù Tây Sơn, một bên thuộc phái phù Lê chống Tây Sơn. Tuy vậy, qua thời gian không thể phủ nhận được giá trị nghệ thuật thể hiện trong bài phú ca tụng Hồ Tây của Nguyễn Huy Lượng…Thu gọn
-
Buổi giao thời, cũng như nhiều nhà nho, nhà thơ thất cơ lỡ vận, thơ Xuân của Tú Xương không còn đơn thuần vịnh cảnh, bày tỏ cảm xúc của người tài tử văn nhân trước sự chuyển giao của đất trời. Tết, Xuân, năm mới trong thơ Nôm Tú Xương như một bức phông nền mà cảnh tượng cá nhân, con người và xã hội được vẽ ra bằng một ngòi bút đại tài. Cùng ngẫm lại những bài thơ và câu đối ngày xuân của bậc thần thơ thánh chữ đất Thành Nam…Thu gọn
-
Ngay từ khi mới ra đời, những tác phẩm thơ văn yêu nước của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tác động sâu sắc tới quảng đại quần chúng. Trải qua bao biến cố, thời gian, giá trị thơ văn của cụ Đồ Chiểu luôn được đón nhận và phát triển trong nhân gian. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng là lá cờ đầu của văn học chống chủ nghĩa thực dân, không chỉ của Việt Nam mà của thế giới. Hơn thế, tác giả của truyện thơ “Lục Vân Tiên”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn thể hiện tầm vóc, tư duy của một tác giả tiên phong, đi trước thời đại…Thu gọn
-
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu vốn là một nhà nho giàu lòng yêu nước, nhưng vì hoàn cảnh mù lòa mà không thể phất cờ khởi nghĩa như các bậc anh hào: Trương Định, Phan Công Tòng, Thủ khoa Huân. Dẫu vậy, cũng như Nhà yêu nước Phan Văn Trị, bằng tài năng sáng tác thơ văn, cụ Đồ Chiểu đã thành công trong việc biến ngòi bút thành vũ khí chiến đấu sắc bén để phụng sự lý tưởng giải phóng dân tộc…Thu gọn
-
Nói về thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ Xuân Diệu ngợi ca: “Ngôn ngữ trong thơ ông “là thứ ngôn ngữ bình dân, chân thực, thông dụng, thực tế, có cái vị thơm, cái hương lành của cây trái Nam Bộ – cái hương vị văn miền Nam”. Giáo sư Lê Trí Viễn nhận định Nguyễn Đình Chiểu vừa là “thầy học giữa làng” vừa là “thầy lang cuối xóm”. Trong ông, có “ba con người trí thức”. Đó là “thầy thuốc, thầy giáo, và nhà thơ”. Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng nhiều câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu không cần gọt giũa mà vẫn nói được nhiều điều đơn giản, thẳng thắn, có khi “còn nguyên thuỷ của người Nam Bộ”. Theo Nhà Phê bình Lê Xuân – Người dành nhiều thời gian, công sức để nghiên cứu và khám phá vẻ đẹp của văn hóa - văn nghệ dân gian Nam bộ thì sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với vận mệnh đất nước và nhân dân Nam Bộ trong một giai đoạn lịch sử đầy bi tráng.Thu gọn
-
Sinh thời, Nhà Cách mạng, Giáo sư Trần Văn Giàu từng nhận định: “Sở dĩ người Việt Nam ở miền Nam thích truyện “Lục Vân Tiên” trước hết là vì họ thấy mình trong các nhân vật tích cực được ca tụng trong truyện, y như Nguyễn Đình Chiểu nói về họ. Có gì thích thú hơn là đọc truyện mà thấy chính mình trong truyện?”. Truyện thơ tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu có một vị trí đặc biệt trong tâm thức tiếp nhận của công chúng, độc giả Nam bộ. Tác giả Đăng Huỳnh, khi nghiên cứu về tầm ảnh hưởng, sức lan tỏa của “Lục Vân Tiên” ở phương Nam đã đi vào cụ thể các câu đố, ca dao, tục ngữ, dân nhạc lấy cảm hứng từ tác phẩm này…Thu gọn
-
Cùng là những tác phẩm phổ biến và có tầm ảnh hưởng trong tâm thức dân gian, nếu “Truyện Kiều” của Đại thi hào Nguyễn Du được ca tụng là kiệt tác hàng đầu của văn học dân tộc ở mọi thời đại thì truyện thơ “Lục Vân Tiên” của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu từ đầu thế kỷ 20 đã được dân vùng lục tỉnh miền Nam hết sức tâm đắc và ưa chuộng. Sức sống, tinh thần của Lục Vân Tiên đến nay đã trở thành biểu tượng cho quan niệm sống “Giữa đàng thấy chuyện bất bình chẳng tha” của người Nam bộ. Và theo nhà thơ Lê Minh Quốc, tính cách nghĩa hiệp ấy trở thành lẽ sống, tinh thần phụng sự bất vụ lợi: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn” và đã trở thành triết lý sống, di sản văn hóa của người Việt Nam.Thu gọn
-
Sinh thời, nhà thơ, nhà yêu nước Nguyễn Đình Chiểu và bạn đời – Bà Lê Thị Điền có tất cả 6 người con: 3 người con trai và 3 người con gái. Trong đó, nữ sĩ Sương Nguyệt Anh (người con thứ tư) và Nguyễn Đình Chiêm (người con thứ năm) đều là người có tiếng trong giới văn nghệ. Nếu như Nguyễn Đình Chiêm, còn gọi là thầy Bảy Chiêm ngoài sáng tác và dịch thơ còn là tác giả các vở tuồng hát hội: “Phong ba đình”, “Phấn trang lâu” có giá trị văn chương thì người chị Sương Nguyệt Anh là một trang nữ lưu được người đương thời trọng vọng. Sách “Nam Kỳ cố sự” của tác giả Nguyễn Hữu Hiếu có phần viết về người con gái tài sắc của cụ Đồ Chiểu…Thu gọn
-
Cảm kích tài năng và đức độ của người thầy mù lòa, học trò Lê Tăng Quýnh đã se duyên Nguyễn Đình Chiểu (còn gọi là Đồ Chiểu) cho người em gái là Lê Thị Điền. Bà Lê Thị Điền là người rất mực yêu chồng, vừa đảm đang việc nhà, nuôi sáu con thơ, vừa giúp chồng đắc lực. Bà không chỉ mài mực, xếp giấy cho chồng mà còn tự tay ghi chép những áng văn bất tử do chồng sáng tác…Thu gọn
-
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong một nhà nho gốc Huế, thi đỗ Tú Tài năm 1843. Sáu năm sau, đang ở Huế chờ khoa thi hội được tin mẹ mất ông về chịu tang. Vì khóc thương mẹ nên hai mắt bị mù. Mãn tang mẹ, Nguyễn Đình Chiểu mở trường dạy học làm thuốc và sáng tác thơ văn. Năm 1859 khi giặc Pháp chiếm thành Gia Định, ông về quê vợ ở Cần Giuộc. Sau khi Cần Giuộc bị Pháp chiếm, ông về sống tại Ba Chi. Tại đây, trước mọi thủ đoạn mua chuộc, ông vẫn cương quyết không hợp tác với giặc tiếp tục dùng thơ văn làm vũ khí góp phần động viên, cổ vũ nhân dân chống giặc. Những tác phẩm chính của Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu bằng chữ Nôm như: truyện thơ Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư tiều y thuật vấn đáp; các bài thơ: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn miếu Trương Định, … Cùng điểm lại những đóng góp cho văn học dân tộc thông qua các thành tựu trong sáng tác của một tác giả yêu nước, người được xưng tụng là bậc tôn sư của đất phương Nam.Thu gọn
-
Thời Lê trung hưng ghi đậm dấu ấn của nhiều danh nhân đỗ đạt cao, được phong nhiều chức tước quan trọng trong triều đình và để lại nhiều trước tác thơ ca có giá trị. Trong đó phải kể đến Phùng Khắc Khoan-người đã trải qua nhiều chức vụ như Tả thị lang bộ công, Thượng thư bộ công, Thượng thư bộ hộ để lại bốn tập thơ chữ Hán có giá trị. Về sáng tác thơ Nôm thời kỳ này nổi lên tài năng của Nguyễn Văn Giai. Ông thi đỗ Tam nguyên Hoàng giáp, từng giữ chức Tể tướng, tước Thái bảo, Quận công đời vua Lê Kính Tông. Nếu làm quan nổi tiếng thanh liêm thì khi sáng tác thơ Nôm, Nguyễn Văn Giai có cái cười trào tiếu và triết lý thâm thuý về mọi sự ở đời. Tuy số lượng trước tác để lại không nhiều nhưng ông cũng cho thấy một phong cách nhà nho tài tử độc đáo.Thu gọn
-
“Sãi vãi” là truyện thơ Nôm với độ dài 340 liên (tức 640 câu) được Nguyễn Cư Trinh viết vào năm Canh Ngọ (1750), khi ông bắt đầu nhậm chức Tuần vũ Quảng Ngãi. Thông qua cuộc đối thoại giữa hai nhân vật ông Sãi và bà Vãi nơi cửa Chùa, tác phẩm khuyên răn quan quân, động viên binh sĩ, phủ dụ dân miền Thượng, một cách văn trị của vị Tuần vũ mới. Cũng qua “Sãi vãi”, danh tướng Nguyễn Cư Trinh cho thấy cái nhìn đối với Phật giáo, đồng thời đề cao Nho giáo, châm biếm tà đạo, răn giới tầng lớp Nho sĩ về đạo lý “tu, tề, trị, bình” trong hoàn cảnh chế độ phong kiến ở Đàng trong đã suy vi, mục nát…Thu gọn
-
Dòng thơ Nôm của dân tộc ta đã ghi nhận nhiều tác giả tên tuổi vốn xuất thân khoa cử ra làm quan, có những công trạng lớn lao trong kế sách củng cố vị thế của các triều đại phong kiến. Danh tướng Nguyễn Cư Trinh là một trong số đó. Chương trình “Tìm trong kho báu” hôm nay tìm về với dấu ấn cuộc đời và sáng tác của vị tướng trấn giữ biên cương từng góp phần to lớn trong công cuộc Nam tiến của các Chúa Nguyễn…Thu gọn
-
Sách Thiền sư Việt Nam chép rằng, Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt, hiệu Liên Hoa là nhà sư đầu tiên ở miền Nam được phong Quốc sư. Vào những năm cuối đời vì muốn trốn tránh tấm tình của công chúa Ngọc Anh, ông đã từ kinh đô Huế về sống và tu tập ở ngôi chùa này. Nhưng rồi cuối cùng, Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt vẫn phải chịu một kết cục bi thương từ nghiệp duyên này…Thu gọn
-
Bên cạnh câu chuyện hàng phục yêu ma của Hương Hải thiền sư, chương trình này tìm lại di sản sáng tác Quốc âm của Chân Nguyên thiền sư và dấu ấn thơ Nôm Phật giáo triều Nguyễn...Thu gọn
-
Sau thời thuộc Minh, Phật giáo nước ta dần dần chuyển hoá và từng bước phát triển theo chiều rộng, tông phái đứt đoạn nhưng cội rễ thêm sâu trong lòng văn hoá dân tộc. Tuy dưới triều Lê sơ, Nho giáo thịnh trị nhưng Phật giáo vẫn chiếm vị trí cao trong văn đàn. Các tác giả vẫn ưa sáng tác thơ ca mang hơi hướng nhà Phật và được công chúng đón nhận. Chương trình này phác họa về thơ Quốc âm triều Lê, và đi sâu vào tìm hiểu về những sáng tác thơ Nôm của tác giả Hương Hải thiền sư…Thu gọn
-
Mười thế kỷ của văn học trung đại đã trải dấu ấn của nhiều đề tài, phong cách sáng tác làm nên kho báu di sản đồ sộ, đáng tự hào của dân tộc ta. Riêng với dòng thơ Nôm đã manh nha từ thời Lý rồi phát triển ở thời Trần đã ghi nhận các tác giả lớn như Phật hoàng Trần Nhân Tông, Thiền sư Huyền Quang – Lý Đạo Tái. Từ đó, hình thành nên dòng thơ Nôm của các Thiền sư, của người tu hành thông qua các bài phú, bài kệ, những bài thơ Đường luật Quốc âm. Chương trình “Tìm trong kho báu” hôm nay lật giở lại ngọn nguồn của dòng thơ Nôm thiền sư với những giá trị độc đáo…Thu gọn
-
Ngay từ buổi sơ khai, một trong những nội dung quan trọng của thơ ca Quốc âm là răn dạy về đạo lý làm người. Phương thức dạy con qua thơ ca Quốc âm tiếp nối qua nhiều thế hệ nhà nho thời trung đại. Các tác gia văn học như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và sau này là nhà thơ Nguyễn Khuyến đứng trên vai trò người cha, người trụ cột trong gia đình đều có những áng thơ Nôm truyền dạy về kinh nghiệm làm người, quan niệm về lối sống, lối ứng xử trong cuộc sống. Cùng tìm hiểu nội dung răn dạy về đạo làm người cho thế hệ con cháu qua các sáng tác thơ Nôm tiêu biểu của các nhà nho: Mạc Đĩnh Chi (tác phẩm Giáo tử phủ), Ngô Phúc Lâm (tác phẩm Huấn tử thi)…Thu gọn
-
Diện mạo thơ Nôm thời Lê Trung Hưng là sự kết hợp của các tác giả, tác phẩm ở cả đàng trong và đàng ngoài. Thơ Nôm thời Lê Trung Hưng ghi đậm dấu ấn của các tên tuổi lớn như Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Huy Tự với việc diễn Nôm và sáng tác quốc âm đặc sắc; truyền thống sáng tác qua các đời Chúa Trịnh và các danh thần như Nguyễn Quý Đức, Phùng Khắc Khoan, Mạc Thiên Tích… Cùng điểm lại những phong cách, dấu ấn làm nên diện mạo của một giai đoạn lịch sử nhiều biến cố…Thu gọn
-
Nhà thơ Lê Quý Đôn (1726–1784), tên thuở nhỏ là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường là vị quan thời Lê Trung Hưng. Ông còn được mệnh danh là “nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến”. Ngoài sự nghiệp chính trị, Lê Quý Đôn còn để lại cho đời sau một di sản tinh thần vô cùng quý giá, bao gồm gần 40 bộ sách mà nội dung đề cập đến hầu hết mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, triết học, lịch sử, địa lý, ngôn ngữ, văn học… Về sáng tác thơ ca, ông để lại tập thơ chữ Hán “Quế Đường thi tập” và một số sáng tác bằng chữ Nôm. Những sáng tác thơ Nôm của ông tuy còn lại không nhiều nhưng đã thể hiện được tài sử dụng ngôn ngữ cũng như thổi hồn vào câu chữ: Rắn đầu rắn cổ, Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Mẹ ơi con muốn lấy chồng, Mẹ khuyên con lúc về nhà chồng…Thu gọn
-
Trương Quỳnh Như là con gái của Kiến Xuyên Hầu Trương Đăng Quỹ. Sinh trưởng trong gia đình nhà nho, coi trọng giáo dục và thơ phú, bản thân Trương Quỳnh Như cũng sớm biểu lộ tài năng và khí chất hơn người. Qua những sáng tác thơ Nôm của Danh sĩ - Nhà thơ Phạm Thái, đặc biệt ở tác phẩm truyện thơ “Sơ kính tân trang”của ông, thân thế và tài năng của Trương Quỳnh Như trong dòng thơ Nôm cũng đã phần nào hé lộ. Điều này thể hiện rõ nét hơn trong những sáng tác thơ Nôm giàu cảm xúc nhưng lời lẽ ý tứ vẫn rất mực đoan trang của Trương Quỳnh Như...Thu gọn
-
Trong 10 thế kỷ văn học trung đại, dòng sáng tác bằng Quốc âm có những chỗ đứng và giá trị riêng. Cùng với các thể văn vần sơ khai, phú Nôm, thơ Nôm “Hàn luật”, diễn ca lịch sử, ngâm khúc, truyện Nôm, thơ Nôm Đường luật thì Văn tế Nôm cũng có những sự phát triển về nội dung, hình thức nghệ thuật. Chương trình hôm nay đi sâu vào những dấu ấn của thể loại Văn tế Nôm qua phân tích và dẫn chứng các sáng tác tiêu biểu…Thu gọn
-
Sáng tác biểu hiện phần nào xuất xứ, bản lĩnh, hành trình cuộc đời của tác giả - những điều này hoàn toàn trùng khớp với nhà thơ – danh sĩ Phạm Thái. Những dấu ấn trong sáng tạo của ông đều bắt nguồn từ thân thế, tính cách và cảm xúc của chính bản thân tác giả. Chương trình hôm nay, chúng tôi phác thảo chân dung nhà thơ Phạm Thái qua một số tác phẩm tiêu biểu của ông như: Sơ kính tân trang, Chiến tụng Tây Hồ phú.Thu gọn
-
- Tiếp tục lần giở các sáng tạo trong nội dung nghệ thuật của tác phẩm viết bằng quốc âm của nhà thơ - Danh sĩ Phạm Thái. Bên cạnh việc phân tích những bài thơ nôm viết tặng Trương Quỳnh Như. Chương trình hôm nay sẽ đi vào nghệ thuật kết hợp các thể loại trong truyện thơ "Sơ kính tân trang". Xuất thân trong gia đình võ tướng Thời Lê Trung Hưng cùng với sự xoay vần của lịch sử, cuộc đời nhà thơ - danh sĩ Phạm Thái trải qua nhiều thăng trầm, biến cố trên hành trình phù Lê chống lại Tây Sơn. Mối tình với Trương Quỳnh Như một thục nữ tâm hồn đa cảm có tài thơ phú là ngọn nguồn để Phạm Thái sáng tác nhiều áng thơ Nôm, còn lại đến ngày nay phải kể đến những bài thơ lẻ viết để tỏ tình cùng với truyện thơ "Sơ kính tân trang". Đi vào cụ thể những sáng tác quốc âm Phạm Thái viết cho Trương Quỳnh Như đã làm sáng tỏ phần nào tâm sự, cốt cách, con người tác giả vốn được đánh giá là tài hoa, ngang tàng. - Trích đoạn tiểu thuyết dã sử “Tiêu sơn tráng sĩ” của nhà văn Khái Hưng-Thành viên nhóm Tự Lực Văn Đoàn hòa lại đường nét chân dung của nhà thơ - danh sĩ Phạm Thái.Thu gọn
-
Phạm Thái là một danh sĩ nổi tiếng có tài thơ văn và có chí lớn. Ông còn có hai tên khác là Phạm Đan Phượng, Phạm Phượng Sinh. Ông sinh ngày 19 tháng Giêng năm Đinh Dậu, tức ngày 26 tháng Hai năm 1777 tại làng Yên Thị, xã Yên Thường, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Những năm vừa mới đôi mươi, Phạm Thái đã có những câu thơ tự trào đậm phong thái nhà nho tài tử. Thực tế vốn là hậu duệ công thần nhà Lê Trung Hưng, cuộc đời Phạm Thái trải qua nhiều thăng trầm biến cố và trên những bước đường thiên lý nhân duyên và tiền định, những áng thơ Nôm, truyện thơ Nôm Phạm Thái ra đời - những áng thơ Nôm khác biệt và độc đáo mà truyện thơ Nôm “Sơ kính tân trang” là thành quả, là biểu hiện đậm nét nhất…Thu gọn
-
Điểm nổi bật, thế mạnh và cũng là chức năng chính của thơ trào phúng nói chung là bật lên tiếng cười từ câu chữ và câu chuyện. Ở thơ trào phúng Tú Xương, ông lấy cả bi kịch mình ra để cười nên ta thấy mảng thơ viết về cá nhân nhà thơ là đa dạng nhất về giọng, ngoài giọng chung của bi kịch như ngậm ngùi, xót xa, đau đớn, cay đắng, còn là các cung bậc của hài kịch, tiếng cười đùa bỡn, chế giễu, châm biếm, mỉa mai… Tiếng cười hiển hiện trên câu chữ cũng đi sâu vào một trong những nguyên do, bản chất tạo nên phong cách trào phúng Tú Xương – đồng thời giải mã một số giai thoại về ông Tú thành Nam…Thu gọn
-
Mang tâm trạng của kẻ sĩ “Tài cao, phận thấp, chí khí uất”, nhà thơ Tú Xương đã sáng tác những áng thơ Nôm giàu màu sắc hiện thực, phản ánh cái tôi cá nhân với những nỗi bức bối trước xã hội, thời đại. Cùng tìm hiểu thái độ thẳng thắn của nhà thơ – công dân Tú Xương trước thực trạng, con người, xã hội giao thời được phản ánh qua những áng thơ Nôm của ông. Cũng từ đó, nhìn ra những đặc sắc và cả mặt trái của lối tư duy, lối sáng tác đi đến cực điểm trào phúng của ông Tú Thành Nam...Thu gọn
-
Ở tự trào Tú Xương, thi nhân không chỉ đóng vai trò người chứng kiến, người kể chuyện, người kết nối các sự kiện mà chủ yếu là người gắn số phận riêng cá nhân của mình vào số phận của tầng lớp sĩ, số phận của nền văn hóa truyền thống. Bởi thế ông cảm thấy một cách sâu sắc mình là người bơ vơ giữa hai bờ vực Đông - Tây. Nhà thơ nhìn thấy ở mình cả cái này, lẫn cái kia, cả những giá trị cũ đã tan rã lẫn những giá trị mới đang hình thành, bởi thế ông lấy mình là trường hợp tiêu biểu châm biếm mình để châm biếm người khác, châm biếm người khác cũng là để châm biếm mình …Thu gọn
-
Càng đi vào các sáng tác cụ thể của nhà thơ Tú Xương, chúng ta càng nhận ra đằng sau giọng điệu bỡn cợt, giễu nhại, ngạo đời là những nỗi niềm khôn tả. Có những bài thơ Nôm tưởng trái khoáy, lạ đời nhất ngẫm ra vẫn là xuất phát từ một tấm tình đậm sâu...Thu gọn
-
Nhà thơ Tú Xương thuộc mẫu nhà nho tài tử, ưa hưởng lạc. Ông đắm chìm vào những thú chơi một phần để vơi quên những cay đắng trong thất bại khoa cử. Trong những phân tích về hình ảnh thú hát cô đầu cũng như những lời thơ viết theo thể hát nói của nhà thơ Tú Xương, tác giả Hoàng Yên Lưu chỉ ra tâm trạng thất trí của ông Tú Thành Nam…Thu gọn
-
Nói tới sáng tác Quốc âm của nhà thơ Tú Xương, độc giả, công chúng không chỉ biết đến những bài thơ đậm chất trào phúng mà còn bắt gặp những ý thơ Nôm rất mực trữ tình của cụ Tú Thành Nam. Nhà văn Nguyễn Tuân đã khẳng định khuynh hướng hiện thực và trữ tình song hành trong thơ Nôm của Tú Xương…Thu gọn
-
Nhà thơ Tú Xương, bằng những tác phẩm trào phúng để đời của mình như: Năm mới chúc nhau, Đất Vị Hoàng, Lễ xướng danh, Thói đời…, đã góp phần khai sinh một dòng thơ mới. Việc tìm ra tình huống hài hước và tìm ra ngôn ngữ miêu tả đắc địa những tình huống ấy đều có trong những trang thơ Quốc âm viết về bản thân mình của nhà thơ. Cụ Tú Thành Nam dùng những hình ảnh rất đắt để vẽ nên bức chân dung tự họa bằng thơ hết sức ấn tượng…Thu gọn
-
Buổi giao thời, thực dân Pháp đã căn bản đàn áp phong trào Văn thân khởi nghĩa và bước đầu bóc lột kinh tế. Nhiều giá trị tinh thần trải qua một cuộc bể dâu đạo đức trong đó phải kể đến sự thất thế của chữ Hán, của đạo nho đó là một thực tế đáng buồn đối với những nhà nho tài năng như Tú Xương. Bởi thế, trong nhiều sáng tác, ông chế giễu các trí thức Tây học và mỉa mai cả chữ quốc ngữ đang thịnh hành...Thu gọn
-
Trong 20 năm (từ 1886 đến 1906), Trần Tế Xương với tám lần đi thi hương, nhưng học vị cao nhất cũng chỉ là tú tài. Phải chăng vì thế đã làm nên một nhà thơ lớn mang tên Tú Xương và mảng tối bức tranh về thực tế thi cử thời phong kiến thực dân cuối thế kỷ 19 của nước ta được tái hiện qua những vần thơ Quốc âm đầy tâm trạng của ông Tú Thành Nam...Thu gọn
-
Với những cống hiến cho dòng thơ Nôm của dân tộc, thơ Tú Xương đi sâu vào đời sống, không những được dân gian ưa chuộng mà còn được giới trí thức tinh hoa tìm đọc và biểu dương. Nhờ vận dụng cách nói khẩu ngữ dân gian mà mỗi câu thơ Nôm Tú Xương lại tủm tỉm một nét cười: hài hước, hóm hỉnh, chua cay. Đó là những sắc thái giọng cười trong tiếng thơ Tú Xương. Theo nhà văn Nguyễn Tuân, trong quá trình lao động nghệ thuật, nhà thơ Tú Xương đã kế thừa được truyền thống cười của dân tộc, điệu cười của ông Tú thành Nam có giá trị bổ sung thêm cho tiếng cười đã thành giai thoại, thành một phần đời sống dân ta...Thu gọn
-
Nhà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Tên bố mẹ đặt cho lúc đầu là Trần Duy Uyên. Ông sinh ngày 5 tháng 9 năm 1870 (tức ngày 10 tháng 8 năm Canh Ngọ), ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (sau đổi thành phố Hàng Nâu, hiện nay là phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định). Ông sớm ra đi khi mới 37 tuổi. Ngoài các bản dịch thơ chữ Hán, nhà thơ Tú Xương còn để lại một di sản thơ Nôm phong phú. Cuộc đời lận đận khoa cử là nguồn cảm hứng lớn trong sáng tác của ông. Cùng với nhà thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương là tên tuổi sáng giá nhất trong dòng thơ Nôm trào phúng. Trong khi Nguyễn Khuyến với chủ trương lối thơ châm biếm nhẹ nhàng, thâm thúy đầy ngụ ý thì thơ Nôm cụ Tú thành Nam bật lên tiếng cười chua cay, dữ dội...Thu gọn
-
Vốn là một nhà Nho giàu lòng yêu nước, thương dân, có lúc bị buộc vào hoàn cảnh không còn con đường nào khác phải làm gia sư cho Kinh lược Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải hay bắt buộc nhận lời phải làm Chánh chủ khảo cuộc thi vịnh Kiều do giới chức thời ấy tổ chức. Tuy nhiên, nhà thơ Nguyễn Khuyến luôn tìm cách thể hiện quan điểm, cách nhìn cũng như thái độ nhằm lên án những thói tật của những kẻ hại dân… Đây cũng là nguyên cớ để nhà thơ thể hiện khí chất và tài năng về những sáng tác thơ Nôm tiêu biểu làm đậm thêm một phong cách trào phúng bậc thầy trong nền thơ ca dân tộc….Thu gọn
-
Dòng thơ Nôm trung đại nước ta ghi nhận nhiều tên tuổi với di sản thơ ca giá trị. Điểm chung của các nhà Nho, các công thần đồng thời là những tác giả lớn chính là tấm lòng với vương triều, với dân tộc. Nhưng cũng không thể không nhắc tới phẩm chất thi nhân, cá tính sáng tạo độc đáo. Vì thế, bên cạnh những áng thơ thể hiện đạo lý, đạo nghĩa, chúng ta còn thấy một hình ảnh khác, phong cách tài tử, sự tự tin vào tài năng và bản lĩnh ...của các thi nhân.Thu gọn
-
Với tình yêu sâu sắc dành cho quê hương làng cảnh, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã đưa vào thơ của mình không ít những nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa của nhân dân vùng đồng bằng Bắc Bộ và người dân làng Yên Đổ quê hương ông. Trong các áng thơ Quốc âm của Nguyễn Khuyến đều thấp thoáng đường nét, bối cảnh là các phong tục, tập quán nơi ông cư ngụ và gắn bó…Thu gọn
-
Nói về sự tài hoa, phong phú, linh hoạt, biến báo trong sử dụng Đại từ nhân xưng, có lẽ hiếm nhà thơ trung đại và cả hiện đại nào vượt qua được nhà thơ Nguyễn Khuyến. Thạc sĩ Phan Đình Phùng đã chỉ rõ, các đại từ nhân xưng đó chính là một phương tiện của “cái tôi trữ tình” trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến… - Ngẫm nghĩ về tài chơi chữ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ qua những giai thoại lưu lại tới hôm nay.Thu gọn
-
Nhà thơ Nguyễn Khuyến sinh ra ở quê ngoại, vùng đồng chiêm trũng Bắc bộ. Dễ hiểu khi quê hương làng cảnh, những câu chuyện, lý lối, khẩu ngữ dân gian của quê ngoại ăn sâu vào trong tiềm thức, phát lộ trong sáng tác của cụ. Đó cũng là điều mà tác giả Trần Minh Thương dễ nhận ra khi khảo sát về chất dân gian trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến…Thu gọn
-
So với các tiền bối thơ Nôm, Nguyễn Khuyến là nhà thơ đầu tiên thực sự mang lại “địa vị bình đẳng” cho khẩu ngữ Việt trong thế giới thơ ca bác học. Những “à, ư, nhỉ, nhé”…vừa nôm na mách qué, vừa đưa đẩy tinh quái, hiển lộ văn hóa giao tiếp thông tục của người Việt lần đầu tiên xuất hiện đậm đặc trong các bài Luật thi Nôm. Đó chính là một yếu tố ngôn từ không thể thiếu làm nên giọng phản vấn/ tự vấn…Thu gọn
-
Nhà thơ Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất về thơ Nôm trong làng văn học Việt. Điển hình là ba bài thơ viết về mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. Chúng đã được truyền tụng hàng trăm năm nay, được nhớ, được thuộc và là ba bài thơ hay nức tiếng tả về mùa thu ở miền Bắc Việt Nam. Nhà thơ Xuân Diệu cũng đã đưa ra luận đề “Nguyễn Khuyến - nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam”.... và cho đến ngày hôm nay chúng ta vẫn thấy thật xác đáng.Thu gọn
-
Với “Chiều hôm nhớ nhà”, “Buổi chiều lữ thứ”, “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”, “Qua đèo Ngang”, thơ Bà huyện Thanh Quan đã phát huy tinh hoa giá trị cổ điển của ngôn từ, lại biết kết hợp với ngôn ngữ thuần Việt của dân tộc khiến cho mỗi bài thơ của bà đều đẹp đẽ một cách lạ thường, một vẻ đẹp đài các, trang nghiêm hiếm có trong lịch sử thơ Nôm Đường luật Việt Nam…Thu gọn
-
Tới thế kỷ 18, cùng với phong trào xướng họa trong cung đình, thơ Nôm trở thành một văn tự quen thuộc để các nhà nho, danh sĩ ký thác nỗi niềm. Họ sáng tác thơ quốc âm để vịnh cảnh, vịnh vật, kể chí, bày tỏ nỗi lòng. Tuy nhiên không phải ai cũng có thể đưa sáng tác văn vần bằng chữ Nôm lên một tầm cao, một dấu ấn sâu đậm như bà Huyện Thanh Quan…Thu gọn
-
Dù số lượng thơ Nôm của Bà Huyện Thanh Quan còn lại tới hôm nay không nhiều, thế nhưng cũng đã đủ để định hình một phong cách sáng tác độc đáo trong dòng thơ Quốc âm. Tất cả những sáng tác Quốc âm của bà quả thực dẫu là tức cảnh ở nơi đâu cuối cùng vẫn cứ mang một nỗi thương thân, nỗi nhớ tiếc dĩ vãng…Thu gọn
-
Sáng tác thơ Đường luật bằng chữ Hán lâu nay vẫn mang đặc tính nặng nề, cổ kính, xa lạ với người bình dân. Khi viết bằng chữ Nôm, thơ Đường luật với cách gieo vần, gieo chữ nghiêm cẩn cũng khó tìm được sự đồng điệu với ngôn từ, đề cao sự thuần phác, nguyên sơ, gần với lời ăn, tiếng nói hàng ngày. Thế nhưng, thơ Nôm Đường luật của bà Huyện Thanh Quan lại dung hòa được hai yếu tố khó đội trời chung là niêm luật thơ Đường và ngôn ngữ Quốc âm. Chỉ có thể giải thích rằng, chính giọng thơ nữ tính, nhuần nhị, mang niềm hoài cổ của nữ sĩ đã thổi hồn cho những áng thơ Nôm Đường luật đầy cốt cách còn ngân vang cho tới hôm nay...Thu gọn
-
Ngoài bài phú viết về "Người tài tử đa cùng" với khẩu khí ngang tàng, phóng khoáng. Gia tài thơ Nôm của thánh thơ Cao Bá Quát còn phải kể đến những bài viết về vịnh cảnh, vịnh người, viết về nhân tình thế thái hay bày tỏ thái độ với những điều mắt thấy tai nghe. Đi vào một số nguồn cảm hứng nổi bật, chúng ta cùng tìm hiểu những đặc sắc về ngôn ngữ và giọng điệu trong thơ Nôm Cao Bá Quát…Thu gọn
-
Trong 3254 câu thơ lục bát “Truyện Kiều”, chữ “xuân” xuất hiện rất nhiều lần. Theo các nhà nghiên cứu, có 55 dòng thơ chứa 58 chữ “xuân”. Dưới ngòi bút điêu luyện của Đại thi hào Nguyễn Du, chữ “xuân” biến ảo trong nhiều ý nghĩa, hay nói cách khác, trường nghĩa của “xuân” rất rộng…Thu gọn
-
Từ nhỏ đã nổi tiếng là thần đồng, đến tuổi trưởng thành, Cao Bá Quát dành nhiều tâm huyết để sáng tác thơ nhưng phần nhiều là thơ chữ Hán với số lượng hơn 1000 bài. Tuy số lượng thơ Nôm không nhiều nhưng suốt cuộc đời, nhà thơ Cao Bá Quát luôn coi trọng vai trò, vị trí của dòng thơ Quốc âm trong nền văn học dân tộc. Những quan niệm về văn chương, học thuật đã được thể hiện rõ nét trong những bài Tự, Bạt và thơ của ông...Thu gọn
-
Với tư tưởng sáng tạo và rộng mở, các nhà nghiên cứu, phê bình trên báo chí Nam Bộ đã tìm về những giá trị Truyện Kiều thông qua nhiều khía cạnh văn bản như nguồn gốc tác phẩm, nghệ thuật ngôn từ lẫn khía cạnh ngoài văn bản như những yếu tố chi phối đến Đại thi hào Nguyễn Du khi sáng tác Truyện Kiều, ý nghĩa đạo đức, tôn giáo, lịch sử, xã hội của tác phẩm. Cùng tìm hiểu vị trí của Truyện Kiều và đại thi hào Nguyễn Du trên báo chí quốc ngữ Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX qua bài tổng hợp của tác giả Nguyễn Thị Phương Thúy …Thu gọn
-
Cùng với thơ Nôm Đường luật, truyện thơ Nôm đóng vai trò quan trọng, đồng hành với đời sống tinh thần của người Việt nhiều đời nay. Với giá trị nhân văn về nội dung và sức hấp dẫn về tính nhạc, giai điệu, truyện thơ Nôm như một ngọn gió mát lành góp phần xua tan nỗi vất vả trong cuộc sống lao động của người bình dân xưa. Cùng lắng nghe các nhà nghiên cứu đánh giá về giá trị, sức lan tỏa của mỗi tác phẩm truyện thơ Nôm trong đời sống và trong văn học.Thu gọn
-
Từ sự kết hợp giữa nghệ thuật ca trù và ngôn ngữ thơ Nôm, hát nói ra đời và trở thành một thể tài độc đáo trong dòng văn học Quốc âm của dân tộc. Với khả năng diễn tả nhiều cảm xúc, hát nói trước tiên đã đáp ứng được việc tỏ bày nỗi niềm tâm sự, sau nữa là nhu cầu giải trí của nhiều tầng lớp trong xã hội. Qua việc đi sâu vào một số đặc điểm của thơ Nôm sáng tác theo thể hát nói, cùng tìm hiểu nghệ thuật hát nói qua những âm điệu đẹp và đáng nhớ trong kho tàng văn học của dân tộc… Qua việc đi sâu vào một số đặc điểm của thơ Nôm sáng tác theo thể hát nói, những âm điệu đẹp và đáng nhớ này trong kho tàng văn học của dân tộc sẽ được gợi lại trong chương trình …Thu gọn
-
Văn hóa đề vịnh thiên nhiên, phong cảnh của các nhà nho xưa được thể hiện qua những dấu tích còn lưu lại trên các địa danh bia đá, bia ma nhai. Các đặc trưng của bốn mùa trong năm cũng là đề tài thường trực trong nhiều áng thơ Nôm. So với ba mùa: Xuân, Hạ, và Thu, mùa Đông ít được nhắc đến trong thơ Nôm hơn. Tuy vậy, không vì thế mà thơ quốc âm vịnh cảnh tả tình trong tiết giá lạnh kém phần đặc sắc. Tiêu biểu cho đề tài mùa đông trong thơ Nôm, chúng ta không thể không nhắc đến các sáng tác của nhà thơ Nguyễn Công Trứ.Thu gọn
-
Thể lục bát vốn được sử dụng trong dân gian, là điệu hát hoặc dùng để kể sử nhưng đã được Đại thi hào Nguyễn Du sử dụng như một phương tiện để sáng tác truyện thơ bằng điệu nói. Tác phẩm “Truyện Kiều” với hơn 3200 câu thơ lục bát của ông được coi là kiệt tác của nền văn học dân tộc, là kết tinh của tài năng trí tuệ, thể hiện nghệ thuật ngôn từ, sức sáng tạo dồi dào, độc đáo sâu sắc. Trong chương trình, chúng ta cùng tìm hiểu về nghệ thuật lục bát của kiệt tác này qua những diễn giải của tác giả Đỗ Đình Tuân.Thu gọn
-
Những năm quân và dân ta chiến đấu đánh đuổi đế quốc Mỹ, bảo vệ đất nước, thì tại Đức, “Truyện Kiều” đã được vợ chồng nhà khảo cứu kiêm dịch giả Irene và nhà thơ Franz Faber chuyển ngữ. Năm 1964, một năm trước dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, ấn phẩm “Das Mädchen Kiều” đã ra mắt công chúng, bạn đọc nước Đức. Theo Tiến sĩ ngôn ngữ Trương Hồng Quang, sau lần xuất bản đầu tiên và lần tái bản duy nhất năm 1980, “Truyện Kiều” tiếng Đức đã tuyệt bản. Nhằm làm sống dậy bản tiếng Đức, kỳ công chuyển ngữ kiệt tác của Đại thi hào Nguyễn Du, dự án “Truyện Kiều” song ngữ Đức – Việt đã được thực hiện và ra mắt năm 2016.Thu gọn
-
Bản dịch "Truyện Kiều" ra tiếng Nhật đầu tiên có tên là "Kim Vân Kiều" do nhà văn Komatsu Kiyoshi dịch, xuất bản năm 1942. Trong khoảng thời gian từ năm 1942 - 2005, người Nhật đã cho ra đời 5 bản dịch khác nhau của “Truyện Kiều” và đều được đông đảo bạn đọc, từ giới tri thức đến người bình dân yêu thích . Những trao đổi giữa BTV chương trình với PSG.TS Đoàn Lê Giang khẳng định vị thế của kiệt tác văn học nước ta không chỉ gói gọn trong vùng lãnh thổ...Thu gọn
-
Cuốn “Truyện Kiều” bằng tiếng Rumani xuất bản năm 1967 bởi nhà xuất bản Văn học Bucuresti (Rumani), được dịch giả Radu Moureanu dịch từ bản dịch tiếng Pháp của Nguyễn Văn Vĩnh được xem như một biểu tượng về tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam – Rumani. Trao đổi giữa Biên tập viên Võ Hà và PGS.TS Nguyễn Văn Dân về bối cảnh lịch sử và hình thức thể hiện của bản dịch “Truyện Kiều” sang tiếng Rumani.Thu gọn
-
Theo thống kê, đến nay đã có trên 30 bản dịch “Truyện Kiều” ra gần 20 thứ tiếng nước ngoài, trong đó có 13 bản tiếng Pháp, 10 bản Hán văn và Trung văn, các bản dịch tiếng Nga, Anh, Nhật, Đức, Tiệp, Hungari, Rumani, Hàn Quốc, v.v… Các học giả quốc tế đều ca ngợi “Truyện Kiều” là tác phẩm xứng đáng nhất của nền thơ cổ điển Việt Nam và Nguyễn Du là nhà thơ lớn có một không hai của dân tộc. Bản “Kim Vân Kiều tân truyện” gồm cả phần lời và phần tranh vẽ minh họa được cho là của đại thi hào hiện vẫn còn lưu giữ tại Thư viện Anh quốc...Thu gọn
-
Sinh thời, Nguyễn Công Trứ từng kinh qua nhiều chức quan như: Tham tụng bộ Lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Không chỉ là một võ tướng tài ba, ông còn có công khai khẩn đất đai, là một nhà Doanh điền kiệt xuất. Tuy vậy, khi nhìn lại cuộc đời mình, ông chỉ tự hào có hai điều, đó là: Nết đa tình và sự ngất ngưởng ngông thấu trời xanh. Cùng tìm hiểu những biểu hiện đậm nét của hai cá tính ấy trong con người một thi sĩ, một nho tướng...Thu gọn
-
Nhà thơ Nguyễn Công Trứ được coi là người có công đầu trong việc đưa hát nói vào văn học và biến nó trở thành một trong những thể tài độc đáo mang đậm đà bản sắc dân tộc. Ở thể thơ này với sự phóng khoáng về niêm luật, chính là nơi để ông thể hiện được đầy đủ nhất chí khí, hoài bão, khí chất ngang tàng trong con người ông. Từ sáng tác theo điệu hát nói của nhà thơ Nguyễn Công Trứ, PGS – TS Vũ Nho đã làm sáng hơn nữa vẻ đẹp nguyên gốc của một sinh hoạt văn hóa cũng như tài năng của ca nương, văn nhân, tài tử.Thu gọn
-
Nhà nho tài tử, đa nhân cách - là những luận bình về nhà thơ Nguyễn Công Trứ. Một trong những biểu hiện của tính đa nhân cách ở Nguyễn Công Trứ, đó là sự song hành của hai xu thế sáng tác hướng tâm và ly tâm. Cùng tìm hiểu về đặc điểm tài hoa, ngọn nguồn của những câu thơ có một vẻ đẹp trác tuyệt, kỳ thú, khởi sinh từ xu thế sáng tác ly tâm của nhà thơ Nguyễn Công Trứ.Thu gọn
-
Khi bàn về chất nhà nho tài tử không thể bỏ qua nhà thơ Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Công Trứ làm quan dưới bốn triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, lập nhiều chiến công như khai hoang, mộ dân, đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống triều đình. Địa vị hiển hách nhưng cũng có những lúc ông bị giáng chức, đỉnh điểm là bị lột mũ áo, giáng làm lính thú ở nơi biên thùy. Bởi cuộc đời ông như một thiên tiểu thuyết ly kỳ thăng giáng liên miên nên dễ hiểu vì sao có nhiều sắc thái trong thơ Nguyễn Công Trứ. Sống trong xã hội phong kiến với những quy chuẩn đạo đức và ứng xử nghiêm ngặt những bài thơ của ông thực là những của hiếm càng đọc, càng ngâm ngợi càng thấy một niềm thú vị riêng. Cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của ông phản chiếu đậm nét qua nhiều sáng tác thơ Nôm như: Bài ca ngất ngưởng, Chí làm trai, Kẻ sỹ, Nợ tang bồng. Gần 200 bài thơ còn lưu lại của Nguyễn Công Trứ nhất là những bài làm theo thể hát nói ghi dấu một cá tính, một tài năng, một nhân cách.Thu gọn
-
Cùng với sự phát triển trong tư duy, nhận thức và quan niệm nghệ thuật, những bổn phận của con người, chức năng, đạo nghĩa quân – thần của các Nhà Nho càng ngày càng có sự tiếp biến, mềm mại. Đó cũng là lý do chất Nhà Nho tài tử của các tác giả thơ Nôm thể hiện qua sự bộc lộ con người và những cá tính bản thân đến thế kỷ 18, 19 đậm nét hơn những thế kỷ trước. Tuy vậy, những tác gia lớn, dù làm quan và sáng tác trong thời kỳ nào, vẫn có những phương cách để bộc lộ toàn vẹn, đầy thuyết phục chất Nhà Nho tài tử...Thu gọn
-
Trước khi nổi tiếng với hàng loạt tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh đã cho ra mắt hai tác phẩm truyện thơ "U Tình Lục” và “Vậy mới phải". Nhà văn ký thác nỗi đời qua thể thơ lục bát truyền thống. Dù sau này ông chọn gắn bó lâu dài và bền chặt với văn xuôi nhưng những truyện thơ sáng tác vào giai đoạn đầu vẫn là một phần không thể quên trong văn nghiệp Hồ Biểu Chánh...Thu gọn
-
Vốn sinh trưởng và gắn bó với vùng đất Nam bộ, thật dễ hiểu khi văn chương của nhà văn Hồ Biểu Chánh thấm đẫm những đường nét, đặc trưng đời sống và văn hóa “miệt vườn”…Thu gọn
-
Trong hồi ký của mình, nhà văn Hồ Biểu Chánh từng “tự thú” về những tác phẩm ra đời từ sự cảm tác khi đọc văn học Pháp và Nga. Nhưng điều lạ lùng là không có một sự “kết án” nào sau những lời “tự thú” chân thật ấy, bởi từ cảm tác, ông đã phôi thai một đời sống mới cho sáng tạo của mình, trên bối cảnh vùng Nam Kỳ lục tỉnh quê nhà.Thu gọn
-
Khoảng năm 1910, về cơ bản, văn xuôi hư cấu bằng chữ quốc ngữ đã gây dựng được cảm tình với độc giả. Phong trào sáng tác lên cao, các tác giả đã sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong hành văn một cách thuần thục, nắm bắt được thị hiếu thưởng thức của công chúng thời bấy giờ. Trong bối cảnh ấy, Hồ Biểu Chánh cho ra mắt hàng loạt các tác phẩm với một lối viết hấp dẫn. Ông nhanh chóng trở thành một hiện tượng của làng văn nghệ Nam Bộ nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.Thu gọn
-
Năm 1964, Giáo sư Trần Thanh Mại đã phát hiện và công bố tập “Lưu hương ký” gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ chữ Nôm của nữ sĩ Hồ Xuân Hương do bạn thơ Tốn Phong Thị viết tựa. Trong tập thơ này, ngôn từ, tâm sự các bài thơ Nôm đậm chất trữ tình, khác với hình dung về một tài nữ đáo để, sắc sảo trong hầu hết thơ Nôm truyền tụng...Thu gọn
-
Trong cuốn “Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực” xuất bản cách đây hơn 20 năm, nhà Phê bình Văn học Đỗ Lai Thúy bình về bài “Đánh đu”: “Thiên tài Hồ Xuân Hương miêu tả cảnh đánh đu rất đẹp, đầy hình ảnh, màu sắc, động tác gợi được không khí xuân. Vẻ đẹp của thân thể con người cũng được miêu tả gợi cảm. Đồng thời, bằng tài nghệ của mình, nhà thơ đã dựng lên nghĩa lấp lửng, phục nguyên được ý nghĩa phồn thực của trò chơi đánh đu”. Nhiều năm sau, nhà phê bình có xu hướng tiếp cận Văn học từ hệ thống Văn hóa vẫn nhất quán với quan điểm: thơ Hồ Xuân Hương dày đặc các biểu tượng phồn thực, vốn là một giá trị Văn hóa…Thu gọn
-
Với những cảm xúc phong phú mang lại, thơ Nôm Hồ Xuân Hương từng được soi chiếu dưới nhiều lý thuyết như văn chương bác học, văn hóa dân gian, chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng, góc nhìn phân tâm học hay phê bình nữ quyền. Chương trình hôm nay góp nhặt một số quan điểm khoa học về hiện tượng phong cách tác giả Hồ Xuân Hương từ cái nhìn hậu hiện đại…Thu gọn
-
Thế Lữ là một trong những đỉnh cao của phong trào Thơ Mới, nổi tiếng với bài thơ “Nhớ rừng”. Ông còn là một cây bút văn xuôi xông xáo, thậm chí còn nổi danh với văn xuôi trước cả thơ. Tổng cộng đời văn Thế Lữ có khoảng 40 truyện, cả truyện dài và truyện ngắn. Ông viết bốn thể tài chính bao gồm truyện kinh dị, truyện trinh thám, truyện thường ngày và truyện lãng mạn đường rừng. Trong đó nổi bật nhất phải kể đến truyện trinh thám, hay khởi nguồn từ tiếng Pháp có nghĩa là văn học cảnh sát…Thu gọn
-
Trong làng văn xuôi tự sự viết đầu thế kỷ 20, nhà văn Nguyễn Bá Học được xếp cùng “chiếu” với những tên tuổi thời bấy giờ là các nhà văn Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách và Hồ Biểu Chánh. Dưới ngòi bút của Nguyễn Bá Học, một phần bức tranh xã hội đương thời hiện lên sinh động. Ở đó, ta thấy được thói cờ bạc chơi bời ở người đàn ông, tính xa hoa, lười biếng, đến nỗi rơi vào cảnh trụy lạc, bần cùng ở những người phụ nữ “con nhà”…Thu gọn
-
Hai phần ba cuộc đời sống với công việc viết tiểu thuyết, Phú Đức là cái tên bảo chứng cho lượng độc giả văn chương trong khoảng chục năm (từ năm 1925 đến năm 1935). Đây cũng là giai đoạn huy hoàng trong sự nghiệp của cây bút trinh thám hàng đầu Nam bộ. Những tác phẩm của ông sau này được tái bản lại vẫn rất “ăn khách”. Điều đó càng khẳng định thêm tiểu thuyết trinh thám Phú Đức có vị trí lớn trong dòng chảy văn chương trinh thám Việt Nam đầu thế kỷ 20.Thu gọn
-
Trong số những cây bút sáng tác văn xuôi quốc ngữ đầu thế kỷ 20, Lê Hoằng Mưu là một trường hợp đặc biệt. Điều đặc biệt đầu tiên, vì là tác giả có tiểu thuyết bán chạy nhất Sài Gòn thời bấy giờ, ông được chọn làm chủ bút và là chủ bút được trả lương cao nhất của những tờ báo nổi tiếng như Lục Tỉnh Tân văn, Nông Cổ Mín Đàm. Điều đặc biệt thứ hai, cuốn “Hà Hương phong nguyệt” của Lê Hoằng Mưu là tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên bị nhà cầm quyền thời bấy giờ thu hồi và tiêu hủy vì dính nghi án Sex…Thu gọn
-
Trên "Nam phong tạp chí" số 18, tháng 12/1918, khi kỳ đầu tiên tác phẩm "Sống chết mặc bay" của nhà văn Phạm Duy Tốn được đăng, học giả Phạm Quỳnh có viết: "Phạm Duy Tốn là một người rất nhiệt thành với văn quốc ngữ, và đã biệt lập ra một lối văn riêng, lấy sự tả chân làm cốt. Mỗi bài văn của ông như một tấm ảnh phản chiếu cái chân tướng như hệt". Qua lời giới thiệu của ông chủ bút Nam Phong, ta thấy được tấm lòng của nhà văn Phạm Duy Tốn với văn chương quốc ngữ, cũng là người có công khai phá lối văn tả thực.Thu gọn
-
Trang viết và sân cỏ - Hai lĩnh vực tưởng chừng xa lạ này liệu có điểm gặp gỡ nào thú vị? Bóng đá và văn chương liệu có thể chung nhịp đập đam mê trong một năm mới đầy hi vọng và tin yêu? Chúng ta cùng khám phá mối liên kết thú vị này trong chương trình “Trái bóng văn chương – Cùng đam mê, chung khát vọng” với nhà thơ Đỗ Trung Lai.Thu gọn
-
Truyện ngắn của nhà văn Thế Lữ thường viết về những số phận hẩm hiu giữa đời thường với những cảnh đời bị phụ bạc mà thành nghiện ngập, thất tình mà tìm đến cái chết, người phụ nữ thiệt thòi phận bạc hay người mẹ mất con đến điên loạn...Thu gọn
-
Cùng với phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn là một hiện tượng văn học mà số phận không thoát khỏi sự thăng trầm trước những biến thiên của đời sống xã hội. Trong khoảng 10 năm tồn tại, Tự Lực văn đoàn với những sáng tác văn học, hoạt động báo chí, trao giải thưởng, tạo nhiều ảnh hưởng đến văn học Việt Nam thời kỳ đó. Văn xuôi Tự Lực văn đoàn đã khẳng định được nét đẹp văn chương và những giá trị mỹ học nổi bật...Thu gọn
-
23 tuổi khi đang là chiến sỹ lái xe Trường Sơn ông được phong tặng Anh hùng LLVT nhân dân. 45 tuổi ông chính thức bước vào thương trường sau khi đã nghỉ hưu với quân hàm trung tá. 57 tuổi ông tự ứng cử và trúng cử đại biểu Quốc hội. Tập đoàn Thái Bình Dương do ông làm Chủ tịch đã và đang đồng hành cùng nhiều tập đoàn nổi tiếng thế giới với những dự án tỷ đô. Cùng tìm hiểu về Anh hùng LLVT nhân dân Phan Văn Quý qua bút ký “Người chiến sỹ ấy” của tác giả Xuân Bách.Thu gọn
-
Sinh năm 1963, tốt nghiệp khoa Anh, Trường đại học tư lập Yonsei (Hàn Quốc), năm 1988 Gong Ji Young chính thức bước chân vào làng văn xứ kim chi bằng tuyển tập truyện ngắn mang tên "Ngày tan vỡ". Các tác phẩm của Gong Ji Young hầu hết đều trở thành sách best-seller, và được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Việt như: “Cá thu”, “Dù con sống thế nào mẹ cũng luôn ủng hộ”, “Yêu người tử tù”… Tác phẩm mới nhất của nữ nhà văn được giới thiệu ở nước ta là tiểu thuyết “Chiếc thang cao màu xanh”, do dịch giả Nghiêm Thị Thu Hương chuyển ngữ, NXB Phụ nữ ấn hành.Thu gọn
-
Để tạo nên hồn vía của làng quê trong tác phẩm của mình, bên cạnh việc miêu tả cảnh quê, nhà văn Trần Tiêu còn khắc họa hình ảnh, tâm tư, tình cảm của người dân quê. Trong đó, ông đặc biệt dành nhiều cảm tình cho người phụ nữ, những người vợ, người mẹ tảo tần khuya sớm vì chồng, vì con…Thu gọn
-
Những người đọc văn Thanh Tịnh có lẽ đều ấn tượng với lời văn đẹp, trong sáng, giọng kể chuyện tâm tình, nhẹ nhàng, nhiều cảm xúc. Cốt truyện không phải là chính yếu mà để nhớ chính là cái không khí, cái dư vị quyến luyến, ngọt ngào pha chút ngậm ngùi, buồn thương…Thu gọn
-
Thơ Nôm Hồ Xuân Hương trước tiên chính là tấm gương phản ánh con người và trí tuệ của tác giả. Chính vì hiểu thấu căn nguyên khởi sinh nên các hình tượng văn hóa dân tộc, thấm nhuần những tập tục dân gian, nữ sĩ đã sáng tạo thơ ca dựa trên những mẫu gốc bắt nguồn từ tín ngưỡng phồn thực của dân nước ta. Có thể nói, chất phong tình, tâm thức phản kháng, khát vọng hạnh phúc, tự do chính là những biểu hiện rõ nét của sự phát triển và biến hóa của các mẫu gốc trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương...Thu gọn
-
Nhiều người yêu văn chương đều biết, ngoài việc đóng vai trò tiên phong trong phong trào Thơ Mới và có những thi phẩm để đời như “Nhớ rừng” hay “Tiếng sáo thiên thai”, nhà thơ Thế Lữ còn viết văn xuôi. Ở địa hạt này, ông thể hiện năng lượng viết dồi dào khi khẳng định bút lực trên nhiều thể tài như truyện trinh thám, truyện lãng mạn đường rừng, truyện đời thường và truyện kinh dị...Thu gọn
-
Là một người sáng tác vốn ưa thích tự do, làm việc theo cảm hứng, thế nhưng khi đảm nhận công việc biên tập văn thơ, nhà thơ Thế Lữ đã cho thấy năng lực đánh giá, thẩm định cũng như tinh thần trách nhiệm cao đối với tác phẩm của các bạn văn, bạn thơ, những đàn em trong làng văn nghệ…Thu gọn
-
Tuy không nổi đình đám trong làng văn xuôi những năm 30 – 40 của thế kỷ trước như các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam nhưng nhà thơ Xuân Diệu cũng là một thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn. Ngoài đắm đuối với thơ, còn dành thời gian sáng tác văn xuôi, cụ thể là viết truyện ngắn, bút ký và phê bình tiểu luận. Trong đó, ở thể loại truyện ngắn, ông có tập “Phấn thông vàng”, gồm 17 truyện, in ở NXB Đời Nay, xuất bản năm 1939.Thu gọn
-
Đặc điểm phê bình của Xuân Diệu là kết hợp bình và giảng, cách hành văn sôi nổi. Đó là lối phê bình giàu tính trực cảm, dễ đi vào lòng người. Nhà thơ dày công đọc, tìm hiểu, so sánh, ngẫm ngợi, công phu, tỉ mẩn chọn lựa từ hàng trăm, hàng nghìn bài thơ để vừa chỉ ra những hạn chế, vừa biểu dương kịp thời phong trào sáng tác và thành tựu của các nhà thơ thuộc nhiều thế hệ. Phê bình văn học của Xuân Diệu sở dĩ không khô cứng vì ông biến hóa đa thanh trong giọng điệu…Thu gọn
-
Sinh thời, nhà văn Nguyễn Tuân từng nhận xét: “Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc…Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời”. Có thể nói, đọc văn Thạch Lam, công chúng được hưởng nhã thú thưởng thức những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học. Cao hơn thế, từ nỗi đời, văn chương Thạch Lam lại vỗ về chúng ta trong bầu không khí tĩnh lặng, bình yên hiếm hoi và quý giá…Thu gọn
-
Nhà văn Thạch Lam vẫn có tiếng trong giới viết văn về phong tục, bản sắc Hà Nội, dù ông chỉ có một tập tùy bút mỏng manh có nhan đề “Hà Nội băm sáu phố phường”. Dưới ngòi bút Thạch Lam, mỗi món ngon Hà Thành đều tỏa ra một không gian văn hóa, quây quanh người bán, người ăn, người làm món ăn, thức ăn, khung cảnh và cả thời gian đã trôi qua trên bước đi của món ăn ấy từ xưa đến nay…Thu gọn
-
So với các cây bút văn xuôi khác trong nhóm Tự Lực văn đoàn, văn phong Thạch Lam chảy riêng biệt một dòng. Đề tài quen thuộc của nhóm Tự Lực văn đoàn là những cảnh sống được thi vị hóa, những mơ ước thoát ly mang màu sắc cải lương, là những phản kháng yếu ớt trước sự trói buộc của đạo đức phong kiến diễn ra trong các gia đình quyền quý. Thạch Lam, trái lại, đã hướng ngòi bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương thời.Thu gọn
-
Công chúng nhớ tới Hoàng Đạo trước tiên trong vai trò nhà cải cách xã hội. Sau đó mới là nhà văn. Thực tế cho thấy sáng tác văn xuôi hư cấu của Hoàng Đạo không nhiều. Ông đã xác lập cho ngòi bút của mình đi theo một con đường riêng với những luận thuyết về xã hội dù có lẽ nhận rõ lối đi ấy không mấy mời gọi như con đường mà Nhất Linh, Khái Hưng hay Thạch Lam lựa chọn…Thu gọn
-
Những người đọc Khái Hưng có lẽ đều ấn tượng với lối văn giản dị, thanh tao, trong sáng, nhịp nhàng nhưng không mất vẻ tự nhiên. Nhà văn Khái Hưng vốn am hiểu phụ nữ và tuổi trẻ, nhờ thế thanh niên và phái đẹp là những độc giả trung thành của ông. Bằng sự cuốn hút rất cập thời, văn chương Khái Hưng đã tìm ra lối đi vào tâm hồn độc giả…Thu gọn
-
Bước vào thế giới văn chương của Tự Lực văn đoàn, có lẽ gương mặt đầu tiên mà độc giả nhớ tới là nhà văn Nhất Linh. Chủ soái đồng thời cũng là linh hồn của Tự Lực văn đoàn không chỉ là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng mà còn là một nhà thơ, một họa sĩ tài năng…Thu gọn
-
Viết cho nhiều đối tượng độc giả, nhưng nổi bật vẫn là đối tượng thanh thiếu niên, nhà văn Kim Ryeo-ryeong luôn bắt đầu với câu hỏi “tại sao?” khi đối diện với những mặt đối lập như cái ác và cái thiện, nạn nhân và thủ phạm. Dù là viết cho trẻ em hay người lớn, trả lời những câu hỏi như thế luôn là một sự thách thức...Thu gọn
-
Myanmar với hơn 50 triệu dân và diện tích lãnh thổ rộng gấp đôi nước ta. Đất nước với hơn 90 phần trăm dân số theo đạo Phật, với hàng ngàn di sản chùa tháp tầng tầng thời gian lịch sử. Myanmar mới bước vào công cuộc mở cửa, bên cạnh những văn minh vật chất phương Tây vẫn giữ gìn trầm tích, thói quen của một miền văn hóa riêng biệt, sâu thẳm, tĩnh tại. Một trong những địa danh nổi tiếng, biểu tượng về văn hóa, niềm tự hào của quốc gia này là chùa Shwedagon, còn gọi là chùa Vàng. Bút ký “Dưới chân tháp chùa Vàng” của phóng viên viên Anh Thư là những cảm nhận của người khách phương xa khi đến xứ sở bình yên này…Thu gọn
-
Sở dĩ giải thưởng văn chương Tự Lực văn đoàn có sức thuyết phục và giá trị cao là bởi ban giám khảo chấm giải đều là những “ngôi sao” trên vòm trời văn chương Việt Nam lúc bấy giờ như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mỡ, kì giải chót có thêm Xuân Diệu. Công chúng, độc giả tin tưởng vào “con mắt xanh” của những người tâm huyết với văn chương, lập ra giải thưởng và trao giải bằng nguồn kinh phí tự lực...Thu gọn
-
Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết tiểu thuyết viết trước Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Công Hoan đều được sân khấu hóa. Các thói tục nông thôn, chuyện quan lại chốn đình trung, những chuyện tình yêu bị chia cắt do lễ giáo phong kiến đã được nhà văn phục dựng một cách sinh động. Tiểu thuyết viết trước Cách mạng tháng Tám của nhà văn Nguyễn Công Hoan thực sự trải trước mắt người hôm nay một bức tranh xã hội cũ thu nhỏ...Thu gọn
-
Nhiều độc giả chỉ biết tới Phan Văn Dật ở tư cách một nhà thơ. Thực tế, bước đầu sáng tác, ông bộc lộ năng khiếu ngôn từ ở thể loại tiểu thuyết. Không phải ngẫu nhiên mà “Diễm Dương Trang”, tác phẩm đầu tay của Phan Văn Dật nhận được sự tán thưởng và tôn vinh của Tự Lực văn đoàn...Thu gọn
-
Không những có công khai phá, mở đường cho văn chương hiện thực phê phán ở nước ta mà nhà văn Nguyễn Công Hoan còn là người góp phần đặt nền móng cho văn xuôi hiện thực hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Nhiều tác phẩm Nguyễn Công Hoan viết sau Cách mạng tháng Tám ngược về quá khứ, nhìn vào hiện thực với một cảm quan mới, sâu sắc và khách quan hơn...Thu gọn
-
Sinh trưởng trong một gia đình nghèo, sớm mồ côi cha, ngay từ nhỏ, Nguyên Hồng đã phải cùng mẹ tới Hải Phòng, lần hồi kiếm sống trong các xóm thợ nghèo, dạy học tư và viết văn. Vì thế, hiện thực cuộc sống của thành phố Cảng nhập vào những trang văn của nhà văn Nguyên Hồng một cách ấn tượng...Thu gọn
-
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, từ Hà Nội tản cư lên vùng núi Lương Sơn (Hòa Bình), văn sĩ Tùng Giang – Vũ Đình Trung được biết chuyện tình bi thương của đôi trai tài gái sắc xứ Mường – Đinh Lăng và Quách Mỵ Dung. Câu chuyện hai nấm mồ của một người vì nước mà chết, một người đành đoạn quyên sinh vì bị ép duyên đã được một người bạn của người đã khuất là cụ Chế Quang Tuyển ghi lại dưới dạng vần điệu của thi ca dân tộc Mường. Từ đây văn sĩ Tùng Giang – Vũ Đình Trung đã cảm tác nên hơn một nghìn câu thơ song thất lục bát viết về thiên tình sử bi hùng của Đinh Lăng – Quách Mỵ Dung. Truyện thơ “Đồi thông hai mộ” đã ra đời và nhanh chóng có một chỗ đứng trong lòng bạn đọc, công chúng...Thu gọn
-
Vốn tài hoa, Đinh Hùng có khả năng hội họa, biết chơi vĩ cầm, thích thú với môn thư pháp bằng chữ quốc ngữ. Ông viết kịch, viết văn xuôi cũng rất tài tình. Thoát khỏi những vần thơ lấp lánh các biểu tượng, đầy sức ám gợi, đong đầy nhạc điệu, ngòi bút Đinh Hùng rẽ sang văn xuôi vẫn là ngôn từ tinh tế, sắc sảo nhưng được thể hiện một cách đời thường, dung dị và gần gũi hơnThu gọn
-
Sống và sáng tác cùng giai đoạn với Đại thi hào Nguyễn Du, nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một phong cách thơ Nôm độc đáo. Nếu “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được truyền khẩu rộng rãi trong dân gian thì thơ Quốc âm của Hồ Xuân Hương, những bài như Mời trầu, Tự tình, Quả mít, Bánh trôi, Con ốc nhồi, Đèo Ba Dội, Sư bị ong châm, Thiếu nữ ngủ ngày cũng được thích thú ngâm nga, truyền tụng bao đời nay. Tuy mỗi tác giả, tác phẩm có nội dung, tính chất, nghệ thuật thơ riêng biệt nhưng xét về quá trình thâm nhập vào quảng đại quần chúng, tới hôm nay có thể thấy ảnh hưởng của thơ ca Hồ Xuân Hương so với Đại thi hào Nguyễn Du cũng vững vàng ở thế một chín một mười.Thu gọn
-
Cũng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, những nhà nho – công thần đồng thời là nhà thơ, sự nghiệp sáng tác của Đại thi hào Nguyễn Du cũng có hai dòng văn học chức năng và văn học nghệ thuật. Nếu văn học chức năng nhằm bày tỏ tấm lòng trung hiếu, nhân nghĩa, trách nhiệm công dân với xã hội thì văn học nghệ thuật là địa hạt riêng tư và cũng vô cùng tinh túy để tác giả bộc lộ chiết xuất tài năng độc đáo. Tác giả của những tác phẩm lớn như “Truyện Kiều”, “Văn chiêu hồn” đã dung hòa được văn học chức năng và văn học nghệ thuật trong các sáng tác Quốc âm đạt tới “cảnh giới” thời đại...Thu gọn
-
“Những trang đời hậu chiến”, chương trình phát thanh Văn nghệ đặc biệt do Ban Văn học Nghệ thuật VOV6 – Đài Tiếng nói Việt Nam thực hiện, xoay quanh những nhân vật trong các tác phẩm ký về đề tài hậu chiến của nhà văn Minh Chuyên. Những nhân vật ấy từ đời thực bước vào trang sách, rồi từ trang sách lại bước ra cuộc đời, với bao éo le, trắc trở, oan khuất, song đã cùng nhau xây dựng nên câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp giữa đời thường...Thu gọn
-
Trong ba lần Tự Lực văn đoàn trao giải thưởng, nhà văn Nguyễn Khắc Mẫn được vinh danh tới hai lần. Hai giải khuyến khích năm 1935 và năm 1937 đều thuộc về tác giả quê Kinh Bắc. Tâm niệm “Văn dĩ tải đạo”, văn chương Nguyễn Khắc Mẫn tìm tòi và nêu cao phẩm chất tốt đẹp của con người trong những hoàn cảnh khó khăn, ngặt nghèo...Thu gọn
-
Có tài dẫn dắt cốt truyện đến một kết cục không ai ngờ đến, nhiều truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có dáng dấp như một màn kịch ngắn đầy cảm xúc và cuốn hút. Truyện ngắn “Kép Tư Bền” in trong tập truyện ngắn cùng tên năm 1935 tiêu biểu cho đặc điểm ấy của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan..Thu gọn
-
Giữa muôn ngả rẽ của tư tưởng văn chương buổi giao thời, ngay từ đầu nhà văn Nguyễn Công Hoan đã dứt khoát hướng ngòi bút của mình đứng về phía người dân lao động bị áp bức. Ông là người đã đặt những viên gạch đầu tiên xây đắp nền móng cho nền văn xuôi hiện thực phê phán. Theo Giáo sư Phan Cự Đệ, tác phẩm Nguyễn Công Hoan là bức tranh sống động về những cảnh ngộ, con người trong chế độ cũ...Thu gọn
-
Viết cho nhiều đối tượng độc giả, nhưng nổi bật vẫn là đối tượng thanh thiếu niên, nhà văn Kim Ryeo-ryeong luôn bắt đầu với câu hỏi “tại sao?” khi đối diện với những mặt đối lập như cái ác và cái thiện, nạn nhân và thủ phạm. Dù là viết cho trẻ em hay người lớn, trả lời những câu hỏi như thế luôn là một sự thách thức...Thu gọn
-
Khi tiểu thuyết “Bỉ vỏ” được trao giải Tự Lực văn đoàn, những tên tuổi thời bấy giờ là nhà văn Thạch Lam và nhà văn Vũ Ngọc Phan đã gọi Nguyên Hồng là một tài năng trẻ nhiều triển vọng. Có lẽ họ đã nhìn ra ở Nguyên Hồng tố chất của một người viết hứa hẹn đi đường dài với văn chương. Có thể nói những tác phẩm đặc sắc nhất của nhà văn Nguyên Hồng đều viết về lớp người cùng khổ của xã hội...Thu gọn
-
Hầu hết các tác giả được Tự Lực văn đoàn vinh danh đều nhanh chóng trở thành “con cưng” của giới phê bình văn học thời bấy giờ. Mạnh Phú Tư cũng được hưởng “đặc ân” ấy sau khi tiểu thuyết "Làm lẽ" đoạt giải. Cả trước và sau Cách mạng tháng Tám, văn xuôi của ông đều được đánh giá cao ở nội dung thuần Việt. Tinh thần ấy được thể hiện bằng một văn phong thuần thục, giản dị và xúc động.Thu gọn
-
Bên cạnh hàng loạt sáng tác văn chương hư cấu nổi tiếng, nhà văn Nguyễn Công Hoan còn thể hiện khả năng lý luận phê bình văn học qua một số tác phẩm bàn về quan niệm văn chương, kinh nghiệm viết văn và chân dung nhà văn. Trên nền tảng sáng tác và tác phẩm, những lý luận về văn chương của ông quả thực hấp dẫn và giàu sức thuyết phục...Thu gọn
-
Nhìn vào sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng, người đọc dễ nhận thấy phụ nữ và trẻ em là hai đối tượng luôn được nhà văn dành nhiều ưu ái, cảm tình và sự bênh vực. Xuyên suốt nhiều tác phẩm đặc sắc, nhà văn Nguyên Hồng thể hiện tấm lòng với những số phận con người nhỏ nhoi và yếu thế trong xã hội đương thời...Thu gọn
-
Sở dĩ những trang văn của Nguyên Hồng khơi dậy nhiều cảm xúc vì độc giả thấy được, chạm được vào những câu chuyện, cảnh đời trần thế mà ở đó, tác giả hóa thân một cách trọn vẹn, thấm thía vào các nhân vật. Chất tự sự trong văn Nguyên Hồng không chỉ thể hiện ở các tác phẩm mang nhiều yếu tố hồi ký, tự truyện mà cả ở những trang văn hư cấu...Thu gọn
-
Những phát thanh viên của chương trình Văn nghệ là cầu nối đưa các tác phẩm văn học nghệ thuật đến gần hơn với công chúng qua làn sóng phát thanh quốc gia. Tiếng nói Việt Nam là tiếng hồn của dân tộc, chứa đựng những vẻ đẹp thẳm sâu của văn hóa qua bão giông lịch sử. Phát thanh Văn nghệ, một phần nào đó, chính là nơi neo giữ tâm hồn dân tộc…Thu gọn
-
Cách đây hơn 60 năm, nhà thơ Đinh Hùng trong một bài viết về Đại thi hào Nguyễn Du đã gọi “Văn tế thập loại chúng sinh” là “Tiếng Vọng Tố Như”: “Tiếng Vọng Tố Như không phải chỉ có “Đoạn trường tân thanh” mới đáng kể là tiêu biểu mà còn có “Văn tế thập loại chúng sinh”, tức Thơ Chiêu hồn. Nếu Truyện Kiều ví như một toà lâu đài uy nghi dựng lên giữa cuộc sống biến diễn từng lớp kịch nhân tình bi hoan, thì “Văn Chiêu hồn” là một ngọn hải đăng cô tịch chiếu ánh sáng ngoài cửa biển đêm dài, soi đường cho những con thuyền lạc lõng trên sóng nước mù sương...Thu gọn
-
Nếu Ức Trai – Nguyễn Trãi được xem là thi nhân đi đầu trong việc chuyển đổi từ sáng tác thơ Nôm Đường luật chuẩn mực sang biến thể thất ngôn xen lục ngôn thì đến thế kỷ 18, các khúc ngâm nổi tiếng làm vang danh thể thơ song thất lục bát. Tiếp nối thành tựu của thể lục bát gián thất đã đành, một tên tuổi sáng chói của văn học giai đoạn này – Nhà thơ Nguyễn Du được xem là bậc thầy trong việc định hình và nâng tầm thể thơ lục bát của dân tộcThu gọn
-
Ngoài tư cách nhà văn, Ngô Tất Tố còn được biết đến là một nhà báo, nhà Nho học, dịch giả và nhà nghiên cứu có ảnh hưởng lớn đối với văn hóa nước nhà, giai đoạn trước năm 1954...Thu gọn
-
Tấm lòng và tài năng, hai yếu tố ấy hội tụ trong con người nhà văn Ngô Tất Tố đã hoài thai ra những tác phẩm rung động lòng người, ví như “Tắt đèn” và “Trong rừng nho”. Hình tượng phụ nữ trong tiểu thuyết của cây bút đi đầu trào lưu văn học hiện thực phê phán đã được ông dày công xây dựng...Thu gọn
-
Trong làng báo cuối những năm 30, đầu những năm 40 của thế kỷ trước, bên cạnh những tiểu thuyết, truyện dịch có tiếng vang lớn, nhà văn Ngô Tất Tố là một trong những tay “bỉnh bút” kỳ tài về mảng phỏng sự...Thu gọn
-
Cách viết đơn sơ, chân thực, mực thước cổ điển, mà vẫn rất tình cảm của nhà văn Ngô Tất Tố không chỉ thể hiện trong các tiểu thuyết, phóng sự mà còn đậm nét ở mảng truyện ký lịch sử. Thể hiện hiểu biết về lịch sử đã đành, với giọng kể hấp dẫn và năng lực gửi gắm cảm xúc vào câu chữ, những trang truyện ký về các nhân vật, sự kiện lịch sử của nhà văn Ngô Tất Tố có một dáng vóc riêng...Thu gọn
-
Trước khi nổi danh trong làng văn nước ta với những tiểu thuyết “Tắt đèn”, phóng sự “Lều chõng”, “Việc làng”, nhà văn Ngô Tất Tố đã có những tác phẩm dịch từ Hán văn. Sau đó, dù bận rộn với sáng tác và làm báo, ông vẫn dành nhiều thời gian để dịch và chú giải các tác phẩm triết học và văn học Trung Hoa. Đáng chú ý ở mảng dịch thuật của nhà văn Ngô Tất Tố là các tác phẩm như “Cẩm Hương đình”, “Kinh dịch”, các tác phẩm thơ Đường…Thu gọn
-
Việc tinh thông Hán học là một lợi thế của nhà văn Ngô Tất Tố khi tiếp cận những tác phẩm văn học trung đại của nước nhà. Không những dịch bản chữ Hán tiểu thuyết lịch sử “Hoàng Lê nhất thống chí” nằm trong bộ “Ngô gia văn phái tùng thư”, ông còn dịch thơ, biên soạn, chú thích về tiểu sử, cuộc đời của các tác giả tiêu biểu trong lịch sử văn học dân tộc...Thu gọn
-
Ngô Tất Tố đến với tản văn và tiểu phẩm báo chí một cách có chủ đích. Gần 20 năm, nhà văn bền bỉ, say mê viết tản văn, tiểu phẩm báo chí. Ông là người gây dựng và làm nên thương hiệu của các chuyên mục: “Nói chơi” trên báo “Đông phương”, “Gặp đâu nói đấy” trên báo “Phổ thông”, “Nói giữa giời” trên “Thực nghiệp Dân báo”. Không chỉ gây ấn tượng về số lượng, nhà văn Ngô Tất Tố đã tạo dựng được phong cách viết tản văn, tiểu phẩm báo chí độc đáo.Thu gọn
-
Với đặc tính nhẹ nhàng, tinh tế, dễ đi vào lòng người, sâu sắc, thực tế chứ không cao vời, mô phạm như thơ chữ Hán, thơ Nôm phát huy triệt để những ưu thế để các nhà nho khuyên nhủ con cháu điều hay lẽ thiệt. Từ thế kỷ 14, đời nhà Trần đến buổi giao thời mạt Nho, thơ phú sáng tác bằng Quốc âm vẫn được các Nhà Nho tin dùng để đúc kết những kinh nghiệm, trải nghiệm về đời sống truyền gửi đến các thế hệ sau...Thu gọn
-
Thời khắc đất trời chuyển mình, vạn vật sinh sôi, tâm hồn thi nhân đâu dễ dửng dưng. Nhắc xuân nhưng đâu chỉ để kể, tả cảnh xuân, ở nhiều áng thơ Nôm, người đọc xưa nay tìm thấy những phong vị, ẩn tình thâm sâu...Thu gọn
-
Manh nha từ các bài phú Nôm của tầng lớp trên, ra đời ở thế kỷ 13, đời nhà Trần, chậm rãi, chừng mực và rồi thăng hoa, thơ Nôm bước vào đời sống người bình dân. Kể từ thời nhà Lê, dòng thơ này có những thành tựu rực rỡ, chứng tỏ được sức ảnh hưởng dài lâu trong nền văn học dân tộc...Thu gọn
-
Bước đầu đến với nghề văn, nhà văn Vũ Trọng Phụng viết kịch và truyện ngắn nhưng chưa thực sự gây tiếng vang. Mãi đến khi dấn thân vào mảng phóng sự xã hội, tên tuổi của ông mới được biết tới rộng khắp. Hàng loạt phóng sự đề cập tới những hiện tượng sốt dẻo của thành thị thời bấy giờ đã góp phần tạo nên danh hiệu “ông vua phóng sự của đất Bắc” Vũ Trọng Phụng...Thu gọn
-
Với những trang viết mô tả rất chân thực, tinh tế và sống động những thuần phong mĩ tục của người làng quê sau lũy tre làng, nhà văn Kim Lân đã tạo nên sức hấp dẫn riêng cho những truyện ngắn của mình từ chính những khám phá các giá trị văn hóa cổ truyền của vùng đất Kinh Bắc...Thu gọn
-
Với giá trị nội dung và nghệ thuật sâu sắc, độc đáo, các tác phẩm của nhà văn Vũ Trọng Phụng trước tiên gây ấn tượng mạnh mẽ với các đồng nghiệp. Nhà thơ Lưu Trọng Lư gọi nỗ lực gây dựng tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là “Một sức sáng tạo nhiệm màu”. Về sau, nhà văn Nguyễn Khải đánh giá những trang viết của tác giả “Số đỏ”: “làm vinh dự cho mọi nền văn học”. Còn nhà văn Nguyễn Quang Sáng cho rằng nhà văn đàn anh có một “bút lực ghê gớm và dữ dội”...Thu gọn
-
Trong Tự truyện “Một quãng đường”, nhà văn Tô Hoài bộc bạch: “Những sáng tác của tôi đều miêu tả tâm trạng tôi, gia đình tôi, làng tôi, mọi cái của mình quanh mình. Những nghèo đói, cùng túng, đau đớn. Phần nào nhẹ nhàng hay xót xa, hay nghịch ngợm và đá chút khinh bạc là phần nào con người và tư tưởng tiểu tư sản của tôi”. Ghi dấu ấn ở nhiều đề tài nhưng có thể nói sở trường về bối cảnh của Tô Hoài vẫn là vùng ven đô, ngoại thành Hà Nội. Trong những trang văn viết về nông thôn, cảm hứng phong tục được nhà văn thể hiện rất chân thực và sinh động...Thu gọn
-
Không có cái vẻ êm đềm, thơ mộng, trong lành, buồn lặng như nông thôn trong văn Thạch Lam, cũng không mang hơi hướng bản sắc nệ cổ như văn Ngô Tất Tố, nông thôn, trong mỗi sáng tác của Nam Cao nói như Giáo sư Phong Lê: “không chỉ là một lát cắt tươi rói của cuộc sống mà còn là những chạm khắc rất ấn tượng về những chân dung người làm nên gương mặt dân tộc một thời”Thu gọn
-
Cũng như nhiều đồng nghiệp cùng thời, nhà văn Kim Lân lấy chất liệu từ môi trường cuộc sống đời thường để làm chi tiết trong các sáng tác. Văn ông khác người nhờ biết gạn lọc những tinh túy từ hiểu biết sành sỏi về nếp sống hương thôn, nhờ đó có một sức hấp dẫn riêng biệt. Thưởng thức văn Kim Lân cơ hồ như ngồi trong bảng lảng cảnh quê, nếm một món đặc sản của đồng quê hãy còn tươi roi rói. Món đặc sản ấy quấn quyện hài hòa cả hương, vị, sắc màu, tình đất, tình người, y như những trang văn vừa sinh động, uyển chuyền lại thấm thía cốt cõi sâu xa giá trị cốt cách tâm hồn người dân quê...Thu gọn
-
Nhà văn Nam Cao bước vào làng văn từ năm 1936, khi mới 19 tuổi, với những truyện ngắn đầu tay nhuốm màu lãng mạn. Phải đến khi tuyệt tác “Chí Phèo” và tập “Đôi lứa xứng đôi” ra đời vào năm 1941, ý thức nghệ thuật hiện thực của Nam Cao mới được khơi dòng. Tuy “cập bến” hiện thực muộn hơn so với các tiền bối xuất sắc như , Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng nhưng ngòi bút của nhà văn Nam Cao nhanh chóng bắt được mạch đời và tuôn trào mạnh mẽ...Thu gọn
-
Trong khi Ngô Tất Tố còn bâng khuâng với lều chõng, mái đình, Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng mải mê với tấn bi hài kịch của thời đại, Nguyên Hồng rỏ nước mắt cho những kiếp đời đau khổ thì Nam Cao, bên cạnh những trang viết chí tình về người nông dân bần cùng là triền miên nỗi niềm của người trí thức nghèo trải dài suốt từ “Đời thừa”, “Giăng sáng”, “Nước mắt”, “Sống mòn”...Thu gọn
-
Cũng như nhiều văn nghệ sĩ cùng thời, Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công rồi tới thời kỳ 9 năm kháng chiến chống Pháp tác động mạnh mẽ vào ý thức sáng tạo của nhà văn Nam Cao. Giai đoạn sau Cách mạng đánh dấu chuyển biến lớn trong tư duy sáng tác của nhà văn, in đậm trong một số tác phẩm tiêu biểu như truyện ngắn “Đôi mắt”, nhật ký “Ở rừng”...Thu gọn
-
Tác giả của “Số đỏ”, của “Giông tố”, của “Vỡ đê”– Cách định danh qua tác phẩm như một cách khẳng định dấu ấn trong văn chương không mới. Với trường hợp nhà văn Vũ Trọng Phụng, ông không viết nhiều tiểu thuyết nhưng hầu hết đều nổi tiếng; Và bạn đọc, công chúng cảm thán tài văn Vũ Trọng Phụng ngay khi chỉ cần gọi tên tác phẩm...Thu gọn
-
Sinh thời, nhà văn Bùi Hiển luôn tâm niệm: “Những trang viết của tôi bao giờ cũng gắng giữ lại cái tình người ấm áp. Nó là cái gì còn lớn hơn cả tình bạn và tình yêu cộng lại. Nó đã nâng tôi sống và gắn bó những người dân vùng biển với nhau”. Thực tế, từ những truyện ngắn đầu tay, nhà văn xứ Nghệ đã bám vào hiện thực cuộc sống trên quê hương mình để sáng tác...Thu gọn
-
Trước khi trở nên nổi tiếng trong làng văn, làng báo với các phóng sự và tiểu thuyết được đánh giá là xuất sắc có một không hai, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã viết một số truyện ngắn. Trong vòng 9 năm, từ năm 1930 đến trước khi qua đời vào năm 1939, ông vẫn dành thời gian sáng tác thể loại này. Theo thống kê, nhà văn Vũ Trọng Phụng có khoảng gần 40 truyện ngắn với lối viết hiện đại, giàu tính nhân sinh...Thu gọn
-
Trước Cách mạng tháng Tám, sáng tác của nhà văn Tô Hoài tập trung vào hai đề tài chính là viết về loài vật và nông thôn trong cảnh đói nghèo. Những tác phẩm viết về loài vật của ông đặc biệt có sức hấp dẫn, thể hiện ngòi bút tài hoa và báo hiệu sức sáng tạo sung mãn...Thu gọn
-
Qua nhiều áng thơ Nôm, Ức Trai đã thể hiện chân thực, sâu sắc cách nhìn đời, nhìn người. Quan trường, xã hội lắm bon chen, nhiều lẽ thiệt hơn là nơi ông muốn lánh xa nhưng cũng là nơi cả đời ông mong được “lặn lội” để thỏa chí nguyện cứu nước giúp đời. Nói “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi đến nay vẫn còn là bài học vẹn nguyên về lẽ ứng xử là vì thế...Thu gọn
-
Với những tư tưởng đậm nét trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, ở thế kỷ 19, hai nhà nghiên cứu là Vũ Khâm Lân và Phan Huy Chú đều đánh giá: “Văn chương tiên sinh rất tự nhiên không cần điêu luyện, giản dị mà điêu luyện, thanh đạm mà nhiều ý vị, câu nào cũng có quan hệ đến sự dạy đời”. Căn cứ trên những hiện tượng, câu chuyện xảy ra trong thời đại đang sống, thơ đạo lý của Trạng Trình vì thế tác động trực tiếp vào nhân tâm.Thu gọn
-
Vốn là một nhà Nho, Nguyễn Trãi đề cao việc giáo dục tinh thần nhân ái, tình yêu thương sâu nặng và bổn phận, trách nhiệm của mỗi con người đối với gia đình, xã hội, với đạo nghĩa quân – thần. Ông gửi vào những áng thơ Nôm quan niệm, lối sống đầy đạo nhân với con người, với cuộc đời...Thu gọn
-
Nửa cuối thế kỉ XV, dưới thời vua Lê Thánh Tông được xem là một trong những giai đoạn nêu cao tinh thần tự cường, tự tôn dân tộc. Chữ Nôm, một biểu hiện văn hóa tinh thần của người Việt nhờ đó được coi trọng. Sáng tác và xướng họa thơ Nôm được xem là một trong những hoạt động văn hóa sôi nổi trong cung đình thời Hồng Đức. Tất yếu là sự ra đời của Hội Tao đàn do đích thân vua Lê Thánh Tông là chủ soái, dưới trướng là 28 tên tuổi hay còn gọi là “nhị thập bát tú” gồm những quan lại, nho sĩ văn hay chữ tốt. Tuyển thơ Nôm “Hồng Đức quốc âm thi tập” được xem là những tinh hoa sáng tạo của Hội Tao đàn...Thu gọn
-
Trước khi là nhà thơ, Nguyễn Trãi là một nhà Nho giàu lòng yêu nước thương dân. Thật dễ hiểu khi ông gửi gắm một cách sâu sắc, hàm súc những triết lý của con người Nho giáo trong những vần thơ Nôm. Tâm trạng trăn trở, khắc khoải trở đi trở lại trong sáng tác của Ức Trai và những sắc thái nỗi niềm ấy càng cho thấy bản lĩnh, tài năng của người thơ...Thu gọn
-
Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại nhiều sáng tác Hán, Nôm, như “Bạch Vân am thi tập”, “Bạch Vân quốc ngữ thi” và các tập sấm ký “Trình quốc công sấm ký” và “Trình tiên sinh quốc ngữ”. Các luận điểm triết lý của ông như tương sinh, tương khắc, biến dịch tuần hoàn, âm thịnh dương suy … đều hòa lẫn trong thơ, đặc biệt là thơ Nôm, và sấm ký. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu hiện thực, mang tính triết lý sâu xa. Thơ ông còn truyền đạt lại cho đời sau những đạo lý đối nhân xử thế tốt đẹp của dân tộc: đạo vua tôi, đạo cha con, chồng vợ và quan hệ láng giềng, bầu bạn…Thu gọn
-
Chúng ta đã đồng hành một chặng đường trên hành trình tìm về với các giá trị trong dòng thơ Nôm của dân tộc. Đồng thời với việc soi sáng lại phong cách nghệ thuật của các tác giả sáng tác thơ bằng Quốc âm, triết lý về thân phận con người, hình ảnh của quê hương đất nước cùng nhiều vấn đề của lịch sử, thời thế cũng được hiển lộ. Chương trình Tìm trong kho báu phát 11/06/2020 ôn lại các thành tựu đáng nhớ ấyThu gọn
-
Ở thời đại mà cương thường đạo lý và tiền tài, vật chất dẫu không mong muốn vẫn phải “va chạm” với nhau, Nguyễn Bỉnh Khiêm, với khí tiết của một nhà nho quân tử, vẫn muốn gìn giữ đạo làm người. Trong nhiều áng thơ Nôm, ông trình bày suy tư về thế sự, cuộc đời...Thu gọn
-
Trước Nguyễn Trãi hàng trăm năm, thơ, phú viết bằng chữ Nôm đã xuất hiện. Qua các tác phẩm còn lưu lại tới nay, có thể thấy rõ những sáng tạo vượt bậc của Ức Trai trong sáng tác thơ ca bằng Quốc âm. Nguyên cớ chính yếu khiến thơ Nôm Nguyễn Trãi có sức nặng cũng như sự vang vọng là bởi chiều sâu của tâm sự thi nhân chất chứa trong cảm xúc và ngôn từ thơ. Nguyễn Trãi cũng nói được một cách gần gũi và đi vào lòng người những trăn trở muôn đời của nhân sinh...Thu gọn
-
Trong bối cảnh lý thuyết phê bình sinh thái đang được ứng dụng vào việc đọc, hiểu các tác phẩm văn học, lật lại thơ Nôm Nguyễn Trãi, ta dễ dàng nhận thấy thế giới nghệ thuật của ông tràn ngập những hình ảnh, ý tưởng về môi sinh...Thu gọn
-
Sau thời kỳ các bài phú Nôm ra đời rồi do loạn lạc, giặc giã mà mất mát ít nhiều, đến thế kỷ 15, Nguyễn Trãi là người chính thức đưa chữ Nôm lên một tầm cao, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của tiếng Việt. Ông được công nhận là tên tuổi sáng giá nhất của dòng thơ Nôm. Nếu “Bình Ngô đại cáo” được xem như một áng Thiên cổ hùng văn thể hiện khí phách dân tộc, tập thơ chữ Hán “Ức Trai thi tập” mỗi bài thơ trong đó là một mảnh hồn Ức Trai thì “Quốc âm thi tập” thấm đẫm chất dân gian...Thu gọn
-
Càng đi sâu vào kho tàng thơ ca viết bằng chữ Nôm, chúng ta càng thấy vẻ đẹp và nỗ lực tự khẳng định của Quốc âm trong nền văn hóa dân tộc. Từ xuất phát điểm bị xem nhẹ, chữ Nôm đã đi vào lời ăn tiếng nói hàng ngày, được sử dụng để sáng tác thơ văn. Với những lợi thế chủ đạo và sự tự hoàn thiện không ngưng nghỉ, đến thời Hồng Đức, về cơ bản, chữ Nôm đã trở thành một văn tự được ưa dùng nhờ tính gần gũi, sinh động, uyển chuyển...Thu gọn
-
Đến thời Hồng Đức, về cơ bản thơ phú Quốc âm đã có một vị thế khá vững chãi trong nền văn học dân tộc. Giữa dòng chảy tiếp biến và phát triển của thơ ca, phú Nôm – một thể văn biền ngẫu có vần vẫn có một chỗ đứng riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của các thể loại sáng tác bằng Quốc âm...Thu gọn
-
Dù đề vịnh về hình ảnh, sự vật nào, nhà thơ Nguyễn Trãi luôn gắng chắt lọc lấy những tinh túy của bản chất chủ thể. Viết về các loài cây mang tính biểu tượng trong truyền thống văn hóa phương Đông đâu dễ gói gọn trong đôi ba câu đề vịnh. Bởi thế, Nguyễn Trãi đã sử dụng lối thơ thủ vỹ liên hoàn với một chùm bài nối tiếp nhau nhằm thể hiện những dụng ý riêng...Thu gọn
-
Cuối thế kỷ thứ 15, đồng hành với chữ Hán, được sử dụng như ngôn ngữ hành chính thì Tiếng Việt và chữ Nôm được coi là tiếng bản ngữ và văn tự bản sắc, dùng để giao tiếp thường nhật. Việc vua Lê Thánh Tông khi thiết triều cho phép quần thần được sử dụng tiếng Việt cho thấy nhà vua rất đề cao sự sống động, dễ hiểu của công cụ ngôn ngữ giao tiếp đang dần phổ cập trong cộng đồng. 328 bài thơ Đường luật của vua Lê và triều thần được đưa vào “Hồng Đức quốc âm thi tập” không chỉ là một kho tàng về ngôn ngữ tiếng Việt cổ mà cao hơn kết tinh tư tưởng nghệ thuật của thơ ca và khát vọng của một triều đại...Thu gọn
-
Bài thơ Nôm số 92 còn có tên là “Thú thanh nhàn” với câu mở đầu: “Giàu mặc phận thác đâu bì/ Đọ thanh nhàn, khá nhất nhì” đã nâng thú thanh nhàn lên bậc cao nhất, cao hơn cả sự giàu có và trường sinh. Ẩn dật chưa bao giờ là lựa chọn khó khăn của cụ Trạng. Bởi hơn ai hết cụ thấu suốt lẽ xuất – xử, biết lúc nào nên ẩn, nên tàng. Cho nên mới gọi cuộc ẩn cư của cụ là “Thú nhàn” thay vì “Sự nhàn” như cụ Ức Trai...Thu gọn
-
Sống trong thời buổi phân tranh nhiều biến động, thay vì chạy theo số đông nhà nho thời bấy giờ, nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có những lựa chọn riêng, thể hiện rõ cốt cách và tâm thức trước thời đại. Lựa chọn cuộc ẩn cư, là cội nguồn dẫn tới chữ Nhàn trong thơ Nôm của chủ am Bạch Vân. Lấy chữ “Nhàn” ra để xem xét cũng là gợi mở về sự chuyển biến trong quan niệm đạo lý và thơ ca của bắt đầu từ dấu mốc hình mẫu nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm về sau...Thu gọn
-
Trong nhiều bài thơ, tứ thơ Nôm, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nhắc tới chữ “an phận”, chữ “nhàn” như một lý tưởng sống. Thực tế đây là một trong những khía cạnh trong quan niệm về nhân lý, kết quả của mối giao cảm giữa các hoạt động của con người. Trong khuôn khổ chương trình phát ngày 21/5/2020, chúng tôi đi sâu vào một số đặc điểm trong nguyên tắc nhân lý thể hiện trong thơ ca Quốc âm Nguyễn Bỉnh Khiêm, cụ thể là “Bạch Vân Quốc ngữ thi tập”...Thu gọn
-
Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rõ ràng nhiều tư tưởng của Kinh Dịch, nên được gọi là Dịch lý, biểu đạt qua ba trạng thái bản chất là giao dịch, biến dịch và bất dịch. Trong đó, trạng thái bất dịch chỉ các qui luật với tính chất thường hằng vĩnh cửu của nó, là sự vận động không đầu không cuối, trong tính quy luật vĩnh viễn của tạo hóa. Trạng thái ấy còn có tên gọi là thiên lý – Tức chỉ nguyên lý của vũ trụ...Thu gọn
-
Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai từng đưa ra đánh giá: “Trong kỹ thuật viết thơ của Nguyễn Trãi rõ ràng có một sự cố gắng để xây dựng một lối thơ Việt Nam, trong đó câu 6 tiếng dùng xen với những câu 7 tiếng, khác hẳn với quy cách niêm luật thơ Đường”. Sáng tác thơ Nôm, Ức Trai không bó buộc bản thân rập khuôn nhất nhất tuân theo quy cách chính xác về số chữ. Những sáng tạo trong cách gieo vần, gieo chữ, dùng từ, nhờ thế đã tạo nên một lối thơ độc đáo, cá tính, đầy tinh thần dân tộc..Thu gọn
-
Có thể nói âm điệu trữ tình gây xúc động lòng người của bản “Chinh phụ ngâm” do nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn nôm là kết quả của một chuỗi tự sự giàu tính nghệ thuật. Ở đó, người vợ có chồng đi lính xa nhà giãi bày nhiều cảm xúc, tâm trạng như buồn thương, oán trách, tiếc nuối, lo lắng, xót xa, nhớ nhung, mong ngóng, khát khao… Trong “Chinh phụ ngâm” bản Nôm, ranh giới giữa tự sự và trữ tình, hai phương thức tái hiện đời sống tưởng không thể song hành, đã bị xóa nhòa. Chính việc “kể lể tình cảm” đã tạo khả năng cho áng thơ trữ tình này có thể kéo dài đến 408 câu thơ và diễn đạt một cách dễ dàng, thuận lợi những “cung bậc cảm xúc luôn ngưng đọng trên một khối sầu”.Thu gọn
-
Sự lan tỏa của bản diễn nôm “Chinh phụ ngâm” của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm là minh chứng thuyết phục cho nội lực và sức sống của tác phẩm này trong dân gian. Ngoài giá trị thẩm mĩ, “Chinh phụ ngâm” còn mang ý nghĩa như là sự cứu rỗi cho một thời đại đầy đau thương, tang tóc, chia ly. Những tác phẩm được ghi và lưu truyền bằng chữ Nôm, lối nói Nôm như một cánh cửa chia sẻ, giãi bày, xoa dịu nguôi ngoai phần nào những biến động giáng lên số phận con người và xã hội...Thu gọn
-
Trong 256 năm của thời Lê trung hưng, từ năm 1533 đến năm 1789, giai đoạn tiếp theo của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (tiếp nối nhà Lê Sơ) trong lịch sử nước ta, thơ ca Quốc âm tiếp tục phát triển, bất chấp những xung đột trong xã hội. Đặc biệt, sau cuộc chiến với nhà Mạc, đến thời kỳ vua Lê chúa Trịnh, xuất hiện những tác giả có sự đổi mới trong phương thức sáng tác thơ Nôm, để lại những di sản còn giá trị tới hôm nay.Thu gọn
-
Cảm hứng về thiên nhiên, tạo vật trở đi trở lại trong nhiều sáng tác của Nguyễn Trãi nhưng hiếm thấy sự nhàm chán, lặp lại. Chính là vì tâm hồn dễ rung động của nhà thơ phát hiện từ tạo hóa những điều vi diệu. Người đời sau đọc lại thơ Nôm Ức Trai đều ấn tượng với nguồn thi cảm ấy trong thơ ông...Thu gọn
-
Cảm thức Thiền đã từng in đậm trong thơ Nôm thời Lý – Trần qua các áng thơ của Thiền sư Huyền Quang hay vua Trần Nhân Tông và hội Tao Đàn. Đến thế kỷ 16, cùng với sự tịnh tiến gần hơn với đời sống, cảm thức Thiền cũng có sự hài hòa, nhập thế. Chất Thiền trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm biểu hiện qua mối giao cảm với thiên nhiên, tạo vật, ngầm chứa những triết lý sâu sắc về cuộc đờiThu gọn
-
Ở thế kỷ 18, cùng với nền nữ học được quan tâm và chú trọng, đã xuất hiện các tác giả nữ chứng tỏ được tài năng trong sáng tác và xướng họa thơ phú. Đoàn Thị Điểm là một trong những tài nữ như thế. “Chinh phụ ngâm” đã khẳng định vai trò của Hồng Hà nữ sĩ trong việc đưa tác phẩm này trở thành một kiệt tác văn học còn có giá trị cho tới hôm nay...Thu gọn
-
Sử sách đã ghi nhận, ngoài vua Trần Nhân Tông, những người đứng đầu các triều đại phong kiến nước ta như vua Lê Thánh Tông hay các chúa Trịnh đều kế thừa được truyền thống sáng tác thơ ca bằng Quốc âm của các tiền nhân đi trước. Điều này cũng chứng tỏ được vị thế, khát vọng tự chủ về văn hóa, chữ viết cũng như tinh thần tự tôn dân tộc.Thu gọn
-
Trong thời Phong kiến, văn chương và khoa cử vốn được xem là nơi thi thố, so thứ bậc thông hiểu chữ nghĩa thánh hiền. Thật khó để phụ nữ, vốn bị ám định khó làm nên việc lớn chen chân vào chốn xướng họa, công danh. Thế nhưng, lịch sử đã ghi nhận sự xuất hiện và khẳng định tài năng thơ phú viết bằng cả chữ Hán lẫn chữ Nôm của các nữ tác giả...Thu gọn