Bác sĩ chuyên khoa 2 Huỳnh Tấn Vũ, giảng viên khoa Y học cổ truyền, Đại học Y Dược TP.HCM cho biết, cây đinh lăng được ví như “nhân sâm của người nghèo”, bởi nó không chỉ được sử dụng làm rau mà còn là vị thuốc có tác dụng bồi bổ sức khỏe, chữa được nhiều chứng bệnh.
Đinh lăng có tên khoa học Polyscias fruticosa, là một loại cây thân nhỏ, nhẵn, không có gai, thường cao 0,8-1,5m, phiến lá chét có răng cưa không đều, lá có mùi thơm. Trong dân gian, lá đinh lăng thường được sử dụng trong các món gỏi cá, gói nem...
Về thành phần hóa học, trong đinh lăng có các alcoloid, glucozit, saponin, flavonoid, tanin, vitamin B và các axit amin. Về tác dụng dược lý, các nghiên cứu cho thấy đinh lăng giúp tăng sức dẻo dai của cơ thể.
Theo Đông y, dược liệu đinh lăng có vị ngọt, hơi đắng, tính mát. Tác dụng dược lý và chủ trị của đinh lăng tùy vào từng bộ phận.
- Phần thân, rễ đinh lăng có khả năng tăng cường tuần hoàn máu, giúp lưu thông khí huyết.
- Phần lá có khả năng giải độc, chống dị ứng, ho ra máu, kiết lị.
Theo bác sĩ Vũ, cây đinh lăng có thể được dùng cho các trường hợp cơ thể suy nhược, tiêu hóa kém, nhức đầu, ho ra máu, thấp khớp, đau nhức xương khớp, tắc tia sữa, người hư yếu, ho khan kéo dài.
Công dụng chữa bệnh của đinh lăng
Chữa mệt mỏi, biếng hoạt động: Đinh lăng dùng rễ phơi khô, thái mỏng 0,5g, thêm 100ml nước, đun sôi trong 15 phút, chia 2-3 lần uống trong ngày.
Thông tia sữa, căng vú sữa: Rễ đinh lăng 30-40g, thêm 500ml nước sắc còn 250ml. Uống nóng. Uống luôn 2-3 ngày, vú sẽ hết nhức, sữa chảy bình thường.
Chữa vết thương: Giã nát lá đinh lăng đắp lên.
Chữa sưng đau cơ khớp, vết thương:Lấy 40g lá tươi giã nhuyễn, đắp vết thương hay chỗ sưng đau.
Phòng co giật ở trẻ: Lấy lá đinh lăng non, lá già cùng phơi khô rồi lót vào gối hay trải xuống giường cho trẻ nằm.
Chữa đau lưng mỏi gối:Dùng thân cành đinh lăng 20-30g, sắc lấy nước chia 3 lần uống trong ngày. Có thể phối hợp cả rễ cây xấu hổ, cúc tần và cam thảo dây.
Chữa liệt dương:Rễ đinh lăng, hoài sơn, ý dĩ, hoàng tinh, hà thủ ô, kỷ tử, long nhãn, cám nếp, mỗi vị 12g; trâu cổ, cao ban long, mỗi vị 8g, sa nhân 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chữa viêm gan: Rễ đinh lăng 12g; nhân trần 20g; ý dĩ 16g; chi tử, hoài sơn, biển đậu, rễ cỏ tranh, xa tiền tử, ngũ gia bì, mỗi vị 12g; uất kim, nghệ, ngưu tất, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chữa thiếu máu:Rễ đinh lăng, hà thủ ô, thục địa, hoàng tinh, mỗi vị 100g, tam thất 20g, tán bột, sắc uống ngày 100g bột hỗn hợp.
Chữa dị ứng, ban sởi, ho, kiết lỵ:Lá đinh lăng khô 10gr sắc chung với 200ml nước, uống trong ngày.
Ho suyễn lâu năm: Lấy rễ đinh lăng, bách bộ, đậu săn, tang bạch bì, nghệ vàng, tần dày lá, tất cả đều 8g, Xương bồ 6g, Gừng khô 4g, đổ 600ml sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống lúc thuốc còn nóng.
Bác sĩ Vũ cảnh báo không nên dùng đinh lăng với liều cao vì có thể bị say thuốc và xuất hiện cảm giác mệt mỏi, nôn mửa, tiêu chảy. Khi dùng đinh lăng làm thuốc nên tham khảo ý kiến của người có chuyên môn.