-
Đội gạo lên chùa
Nguyễn Xuân Khánh
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh sinh năm 1933 tại làng Cổ Nhuế, Hà Nội. Ông được biết đến với những tác phẩm tiêu biểu như: Rừng sâu (tập truyện ngắn), Miền hoang tưởng (tiểu thuyết), Trư cuồng (tiểu thuyết), Hồ Quý Ly (tiểu thuyết), Hai đứa trẻ và con chó Mèo xóm núi, Mưa quê, Mẫu thượng ngàn (tiểu thuyết). Mượn tứ của câu ca dao đa nghĩa và nổi tiếng vào hàng bậc nhất trong văn học dân gian Việt Nam "Ba cô đội gạo lên chùa. Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư", Nguyễn Xuân Khánh đã dẫn dắt người đọc vào cuộc phiêu lưu kỳ lạ, vượt quãng thời gian thăm thẳm của hai cuộc bể dâu: kháng chiến chống Pháp và cải cách ruộng đất. Qua câu chuyện kể của chú tiểu An và Nguyệt – người chị gái đẹp nết đẹp người, người đọc đến với những số phận của người dân làng Sọ và cuộc sống vừa lạ lùng, bí hiểm, vừa thanh khiết, thân thuộc trong ngôi chùa làng Sọ...
Chương mới nhất
-
Tiểu thuyết "Đội gạo lên chùa" của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã đạt Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012. Tiểu thuyết là bức tranh khái quát lịch sử của cả một thời đại thông qua bối cảnh làng quê Đồng bằng Bắc Bộ từ những năm Kháng chiến chống thực dân Pháp, cải cách ruộng đất và những năm chống Đế quốc Mỹ. Cuốn sách được chia thành nhiều chương. Mỗi chương dù dài dù ngắn, đều có những tiêu đề riêng. "Đội gạo lên chùa" là một câu chuyện cảm động của chú bé An và chị gái của mình. Sau một trận càn dữ dội của giặc Pháp, cha mẹ đều chết, hai chị em Nguyệt và An phải rời bỏ quê hương, trốn chạy sự truy lùng và tàn sát gắt gao của giặc. Họ trôi dạt đến một ngôi chùa và được sư cụ trụ trì dang tay cứu vớt. Từ đây, số phận An và Nguyệt gắn bó với chùa Sọ và làng Sọ - quê hương thứ hai của mình.Thu gọn
-
Sau khi cha mẹ bị bọn lính Tây giết hại, hai chị em Nguyệt và An đã phải chạy trốn tới chùa Sọ, được sư trụ trì Vô Úy cưu mang. Bọn lính Tây đã tìm thấy căn hầm bí mật che giấu cán bộ Việt Minh ở ngoài mép ao nên chúng đã mang ông xã Chích - bố của Nguyệt ra miếu cô hồn để giết cùng với 15 người khác trong làng. Nỗi đau bị mất người thân chưa kịp nguôi thì Nguyệt lại phải chịu một nỗi sợ hãi nữa, chính là phải làm vợ thứ năm của lão lý trưởng đáng tuổi cha chú mình. Sở dĩ lý trưởng bắt Nguyệt về làm vợ bé vì lão cho rằng, chính lão đã lo hậu sự cho cha mẹ Nguyệt, đồng thời lão cũng ra tay cứu Nguyệt khỏi sự sàm sỡ của lính Tây đen. Để chạy thoát khỏi tên lý trưởng, chị em Nguyệt đã quyết định bỏ trốn và tìm đường đến chùa Sọ. Ở chùa, Nguyệt và An được ăn uống đầy đủ. Đặc biệt, sự chăm sóc tận tình của bà Thầm, người vãi già đã đến ở chùa được nhiều năm. Câu chuyện của Nguyệt khiến cho cả sư bác Khoan Độ và bà Thầm đều nhớ tới cô Thắm - người con gái đẹp người đẹp nết của làng nhưng đã phải nhảy sông tự tử bởi bị cha ép lấy một lão già. Khi ấy, cô vừa tròn 19 tuổi.Thu gọn
-
Chị em Nguyệt và An được sư cụ Vô Úy cho nương nhờ cửa Phật sau khi chạy trốn tới chùa Sọ. An được sư bác Khoan Độ xuống tóc sau mấy ngày ở đây, còn Nguyệt thì chưa. Nguyệt và bà vãi Thầm cùng nhau ở trong phòng nhỏ sau chùa. Còn An những hôm đầu thì ở cùng sư bác Khoan Độ. Về sau sư cụ Vô Úy bắt An phải tự lập bằng cách bố trí cho ở 1 phòng khác. Hàng ngày, cậu được sư cụ dạy cách gõ mõ, tụng kinh và giảng giải về Phật pháp. Sư cụ nói rằng, tiếng mõ là tiếng của Đức Phật. Tiếng mõ đánh thức sự tốt lành, đánh thức tâm Phật trong mỗi con người. Đêm khuya, tiếng mõ vang lên trong làng xóm, để nói với thế gian rằng, Phật luôn ở giữa cuộc đời này. Chính vì vậy, người gõ mõ phải nghiêm trang, kính cẩn, phải luôn nghĩ tới lòng từ bi. Nếu làm được việc đó thì chính người ấy sẽ được sống trong sự an lành vô biên. Hàng ngày, An ngồi học kinh, gõ mõ. Đêm đến, cậu nhớ thầy u và nhớ chị Nguyệt vô cùng. Cậu nhớ hôm người cha của mình cùng 15 người khác trong làng bị quân Pháp lôi ra miếu cô hồn xử tử. Còn chị Nguyệt thì hàng đêm vẫn khóc vì thương nhớ thầy u. Từ bây giờ, chị Nguyệt sẽ là người thân duy nhất che chở và bảo vệ An.Thu gọn
-
Chùa Sọ nằm ở cuối tỉnh, nơi có con sông Đào chảy qua. Con sông là ranh giới giữa một bên là vùng du kích còn bên kia là địa giới tranh chấp quyết liệt giữa Việt Minh và thực dân Pháp. Tuy chưa giành quyền kiểm soát nhưng thực dân Pháp đã xây dựng ở đây một tiểu khu quân sự mà đại úy Thalan là chỉ huy trưởng. Còn phụ trách phòng nhì là trung uy Bernard Martinot- một người Tây lai. Trung úy phòng nhì Bernard có nửa dòng máu Việt, nửa dòng máu Pháp. Cha anh là chuẩn úy Jean Martinot, có mặt ở Đông Dương từ đầu từ thế kỷ hai mươi. Mẹ anh là bà Lê Thị Thu, một cô gái quê đặc sệt, người làng Bái, vì quá nghèo đói nên bỏ quê ra Hà Nội làm ăn. Vốn là gái quê thạo việc chăn nuôi, nên bà Thu chọn việc buôn gà. Nhờ có duyên bán hàng nên Thu lên tận Cửa Đông bán hàng cho nhà binh trong thành. Vừa ăn nói mặn mà, vừa xinh đẹp, Thị Thu đã lọt vào mắt xanh của ông chuẩn úy Martinot. Và Bernard Martinot chính là kết quả của mối tình Pháp Việt ấy. Trong trận càn dưới chân núi Thằn Lằn, đại úy Thalan cho rằng, trung úy Bernard đang lợi dụng chức quyền để cướp bóc, thậm chí còn làm hại tới những người dân vô tội. Tuy nhiên, trung úy Bernard thì cho rằng, trong chiến tranh, nếu không thẳng tay đàn áp thì sớm muộn gì cũng sẽ nhận thất bại.Thu gọn
-
Sau khi chồng là ông Jean Martinot mất, bà Lê Thị Thu đã ôm đứa con nhỏ 6 tuổi là Bernard Martinot về nhà Lý Cẩm, em trai mình ở làng Bái. Lý Cẩm được giữ chức lý trưởng của làng Bái là nhờ sự giúp đỡ rất nhiều về tiền bạc của bà Thu. Chính vì vậy, khi không còn nơi nương tựa thì cậu em trai Lý Cẩm đưa 2 mẹ con về ở cùng một nhà. Và để hòa nhập với trẻ con trong làng, bà Thu đổi tên Bernard Martinot thành Lê Na - một cái tên rất thuần Việt. Lê Na cùng học cùng lớn lên với những đứa trẻ khác trong làng Bái. Nếu để ý kỹ thì mới phát hiện ra nó là con lai. Với mái tóc đen, hình dáng không vạm vỡ, cách nói năng và cả sự nhạy bén thích nghi nhanh với mọi hoàn cảnh sống thì nhiều người đã có lúc lầm tưởng rằng Lê Na là một người Việt thực thụ. Tuy nhiên, thẳm sâu trong suy nghĩ của người con lai luôn mang niềm kiêu hãnh về đất nước văn minh của người cha, luôn đi khai sáng các nước thuộc địa. Cái chết của Lý Cẩm và sự ra đi của bà Thu khiến cho Lê Na nghĩ rằng, chính là quân Việt Minh đã gây ra chuyện đó. Và ngọn lửa căm hờn đã thực sự được thổi bùng lên trong tâm trí trung úy phòng nhì Bernard Martinot khi cán bộ làng Bái điều tra về thân thế, nguồn gốc của cậu ta.Thu gọn
-
Trở lại với chị em Nguyệt, An, sau khi được sư cụ Thích Vô Úy cưu mang, hằng ngày An được sư cụ dạy cho thế nào là tu thiền. Người tu thiền không phải chỉ ngồi tư thế hoa sen mà phải trong từng lời nói, hành vi, cử chỉ. Được sinh ra ở cõi người đó là điều hi hữu. Vì vậy, mỗi người phải sống làm sao cho xứng đáng, đừng sống hoài, sống phí. Bài học tiếp theo mà cậu bé An học được từ sư cụ, đó là chữ Tâm. Nói tới chữ Tâm thì An lại nhớ cha mẹ da diết. Lúc còn sống, cha luôn nhắc nhở 2 chị em Nguyệt, An phải tu tâm, dưỡng tính. Còn mẹ thì luôn đọc cho cậu nghe câu Kiều "Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài". Trong đầu óc non nớt của 1 đứa trẻ thì An chỉ hiểu những điều này một cách lờ mờ, chưa rõ ràng lắm. Từ khi tới chùa, cậu mới hiểu điều đó một cách tường tận. Đó là tất cả mọi người đều có Phật tính, mặc dù vẫn mang trong mình cái tham. Vậy nên con người có thể hướng tới cái cao thượng. Không rèn luyện để hướng tới cái cao thượng thì không phải là Người. Cái cao thượng chính là cái Tâm của Phật. Đó là Tâm Từ, Tâm Bi, Tâm Hỷ, Tâm Xả. Tâm Từ là thương yêu tất cả chúng sinh. Tâm Bi là thương xót những người đang gặp đau khổ. Tâm Hỷ là cùng vui với những người đang có niềm vui thành công. Còn Tâm Xả là không dính chấp với những được thua ở đời. Nếu con người đạt được 4 cái Tâm cao thượng ấy đã là tiến được khá xa trên con đường tu tập.Thu gọn
-
Tiểu thuyết "Đội gạo lên chùa" được kể dưới 2 điểm nhìn. Điểm nhìn của nhân vật người kể chuyện ở ngôi thứ ba và điểm nhìn của chú tiểu An - nhân vật xưng tôi. Theo đó, từng chặng đời, từng số phận nhân vật được tái hiện, gắn với một thời kỳ lịch sử trọng đại của dân tộc, trước và sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Cô thiếu nữ tên Nguyệt đẹp người đẹp nết, sớm phải chịu cảnh xô dạt bởi loạn lạc, chiến tranh. Chú tiểu An hiền lành, nhạy cảm, không thể nào quên những hình ảnh đau thương của một trận Tây càn, khiến cả nhà chú và bao gia đình khác tan nát. Rồi hòa thượng Vô Úy, sư bác Khoan Độ, bà vãi Thầm...qua từng trang, từng trang, hệ thống các nhân vật trong tiểu thuyết mỗi ngày được mở rộng. Những lát cắt cuộc đời mỗi ngày một rõ ràng hơn, đầy nặng hơn và có quan hệ chặt chẽ với nhau. Từ chi tiết chú tiểu An mâu thuẫn với bạn học cùng lớp, người dẫn chuyện ở ngôi thứ ba lại kể cho chúng ta nghe về sư Vô Trần - vốn là học trò yêu của sư cụ Vô Chấp - sư đệ của hòa thượng Vô Úy. Sau hơn 10 năm tu tập, đường đến với đạo của sư Vô Trần liệu đã hanh thông? Cuộc gặp gỡ bất ngờ với thiếu phụ trong rừng cọ liệu có phải là thứ duyên tiền định. Bốn chữ Tùy duyên lạc đạo mà sư cụ đã giải thích cho Vô Trần nghe trong trường hợp này, liệu có vận vào chính anh.Thu gọn
-
Câu thơ "Cư trần lạc đạo thả tùy duyên" trích trong "Cư trần lạc đạo phú" của Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, nghĩa là ở giữa cõi trần, vui với đạo hãy tùy duyên. Đây cũng là một lời đề từ, một điểm nhấn tư tưởng trong tiểu thuyết "Đội gạo lên chùa" của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh. Đến với Đạo là tùy duyên và ngộ Đạo cũng là tùy duyên. Hơn 10 năm tu tập, dưới sự uốn nắn, kèm cặp của sư cụ Vô Chấp, Vô Trần đã trở thành vị sư trẻ tuổi, học rộng tài cao, làu thông giáo lý nhà Phật, nguyện sẵn sàng là người giữ lửa cho tổ đăng. Nhưng đúng như lời sư cụ Vô Chấp, giữa tinh thông giáo lý nhà Phật và ngộ Đạo là hai điều khác nhau. Người tinh thông giáo lý chưa hẳn đã ngộ Đạo. Người theo Đạo, đôi khi chỉ bị một tác động rất vô tình của cuộc sống, của thiên nhiên mà đốn ngộ. Dự cảm lo âu mơ hồ của sư cụ Vô Chấp về người học trò thông tuệ và luôn sẵn bầu nhiệt huyết ấy đã trở thành sự thật. Trong lòng sư Vô Trần chưa rũ sạch được những đam mê tục lụy. Chỉ cần một tiếng gọi khẽ thôi, những đam mê ấy sống dậy, đòi được giải phóng, được trở về đúng với bản năng tồn tại. Thay vì ngộ ra chân lý của Đạo Pháp, Vô Trần lại ngộ ra chân lý của cuộc đời rất thực.Thu gọn
-
Có lẽ những trang viết hay nhất trong tiểu thuyết "Đội gạo lên chùa" của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh là những trang viết về tinh thần Phật giáo, một tinh thần Phật giáo thấm đẫm tư tưởng, tình cảm, văn hóa Việt. Đạo Phật tồn tại ở nước ta từ hàng nghìn năm nay, có lúc thịnh, có lúc suy, có lúc ẩn, lúc hiện. Nhưng tinh thần Phật giáo, tư tưởng Từ Bi Hỷ Xả của đạo Phật không bao giờ mất. Tư tưởng ấy gặp gỡ văn hóa dân gian làng quê Việt, trở thành chỗ dựa, nguồn an ủi, nơi neo đậu của con người trong phút sóng gió, gian nan. Mọi chúng sinh đều có Phật tính. Người xuất gia có thể tu thành chính quả. Với những người như sư Vô Trần, dù hoàn tục nhưng cả đời vẫn thành tâm hướng Phật, hành động theo ánh sáng của Phật pháp. Tinh thần Phật giáo Việt Nam độ lượng và bao dung là thế. Rời làng Sọ lên Hà Nội, hai vợ chồng Nấm, Trần đối diện với rất nhiều khó khăn trong bước mưu sinh. Liệu tình yêu sét đánh vượt lên miệng tiếng người đời ấy có đủ sức giữ đôi trai tài gái đảm mãi bên nhau. Lòng bàn tay đức Phật có che chở được cho chúng sinh của Ngài bình an qua tháng ngày loạn lạc?Thu gọn
-
Nhân vật Bùi Văn Tập, hay còn gọi là Lý Tập cũng là một nhân vật khá thú vị của tiểu thuyết "Đội gạo lên chùa". Ở ông vừa có sự lam lũ, cần kiệm, đôi khi tinh quái của người nông dân, vừa có cái cầu kỳ, trang nhã, độ lượng của bậc trí giả. Mối duyên đẩy đưa ông và Trần xích lại gần nhau, quý nhau như cha con, trọng nhau như thầy trò chính là những dòng chữ thánh hiền đẹp đẽ vuông vắn, chính là Phật tính ẩn trong ánh mắt, gương mặt, giọng nói và bàn tay chàng trai trẻ. Ông cụ Tập đã tận tâm truyền nghề thợ cạo cho Trần - cái nghề tưởng rất phàm tục, không xứng với một chàng trai trẻ nho nhã, học rộng, tài cao nhưng lại là nghề có thu nhập ổn định cho đôi vợ chồng Nấm, Trần giữa thời buổi khó khăn, loạn lạc. Cũng qua cụ Tập, Trần quen với Chí và trở thành liên lạc cho cách mạng Trong cách mạng tháng 8/1945, anh cũng chính là người lãnh đạo dân làng Sọ lật đổ chính quyền cũ phong kiến tay sai, xây dựng chính quyền mới. Cả sau này, khi đã trở thành vị chính ủy oai nghiêm, Trần vẫn luôn nhớ lời dạy bảo của sư phụ Vô Chấp, làm việc đời bằng cái tâm hành đạo. Tuy nhiên, trong con mắt người làng Sọ, Trần vẫn là một ông sư phá giới và cuộc hôn nhân của Trần với Nấm thật khó chấp nhận. Câu chuyện về Vô Trần, về sư cụ Vô Chấp, sư bác Khoan Độ, chú tiểu An sẽ tiếp tục hấp dẫn chúng ta ở những trang tiếp theo của tiểu thuyết "Đội gạo lên chùa"Thu gọn
-
Thông qua câu chuyện cuộc đời của nhân vật trong tiểu thuyết "Đội gạo lên chùa", nhà văn Nguyễn Xuân Khánh muốn chia sẻ với chúng ta những tư tưởng, triết lý, cách hành xử của đạo Phật. Ông đặc biệt nhấn mạnh đến chữ Duyên. Người có Duyên với Phật sẽ vẹn đường tu. Người không có duyên với Phật vẫn được Phật che chở, bảo vệ. Duyên chính là mối tương quan hài hòa giữa Đạo và Đời, giữa con người với con người, giữa con người và vũ trụ. Duyên chi phối thái độ, cách hành xử, ứng xử của hai bên. Thuận Duyên thì hợp mà không thuận thì tan. Chữ Duyên trong nhà Phật vì thế vừa có ý nghĩa khái quát, vừa cụ thể, chi tiết, được vận dụng linh hoạt trong từng hoàn cảnh. Cậu bé An có duyên Phật nên ngay phút đầu gặp mặt đã được sư cụ Vô Úy nhận vào nhà chùa. Cô thiếu nữ Nguyệt xinh đẹp, nết na nhưng nghiệp còn nặng nên không thể xuống tóc đi tu. Duyên của Vô Trần chưa đủ nên đường tu không trọn. Tinh thần Phật giáo cởi mở, uyển chuyển, hướng về Từ Bi Hỷ Xả nhưng vẫn tôn trọng cái riêng tư của mỗi con người.Thu gọn
-
Thịnh và suy, họa và phúc vốn khôn lường, nhất là trong thời loạn. Ở cái tuổi thất thập cổ lai hy, cụ Chánh Long hiểu thấm thía điều này và khuyên các con giữ lấy cái đạo ở đời. Nhưng quản Mật, con trai cụ vốn đang được Tây trọng dụng lại càng hợm hĩnh, cố tỏ ra là một tên tay sai, được việc, không hề nương tay đối với những người theo kháng chiến, ứng xử tàn nhẫn thô bạo với người dân vô tội. Một không khí bất an bao trùm làng Sọ. Và ngôi chùa, nơi tưởng như vô ưu với việc đời cũng không nằm ngoài vòng cương tỏa của quản Mật và đồng bọn. Sư cụ Vô Úy, với cái nhìn sâu rộng của bậc trí giả, với tấm lòng từ ái của bậc chân tu đã lường hết mọi sự. Cụ bình thản cắt đặt, thu xếp cho các đệ tử, bình thản trước những họng súng lạnh ngắt của bọn lính áp giải lên P.C huyện. Nhân vật sư cụ Vô Úy là nhân vật đẹp, cao cả của tiểu thuyết, như một hóa thân của đức Phật ở cõi trần gian, để gieo mối duyên tốt lành, giúp chúng sinh giữ vững niềm tin, sự an lạc giữa dòng đời xô đẩy, cạm bẫy, chiến tranh và loạn lạc.Thu gọn
-
Việc quản Mật lợi dụng chức vụ tổ chức việc mừng thọ cho cha nhằm vơ vét tiền của dân chúng, phô trương thế lực cá nhân đã bị một số tờ báo ở Hà Nội lên tiếng. Nhân cơ hội này, người Pháp truất hắn khỏi chức đồn trưởng bốt đồn Sọ một cách êm ái. Vai trò tiên phong, bình định vùng tạm chiếm của Mật chấm dứt. Người Pháp cần sự đảm bảo hơn về lòng trung thành với Pháp quốc, nhất là khi cuộc chiến tranh đã bước vào giai đoạn quyết liệt. Ảnh hưởng của cách mạng đối với quần chúng rất sâu sắc. Họ sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích dân tộc. Người Pháp tự hào cho rằng, mình là kẻ đi khai sáng, đưa văn minh tới xứ sở còn tăm tối. Tiêu biểu cho suy nghĩ ấy là đại úy Thalan, một con người nho nhã, hiểu biết, sâu sắc và thâm thúy. Ông cắt đặt người thay vào vị trí của quản Mật, đầu tư xây dựng bốt đình làng Sọ bề thế hơn, trang bị thêm vũ khí hiện đại nhằm tăng cường vai trò, vị trí chiến lược của nơi này. Những người theo kháng chiến càng bị khủng bố ráo riết nặng nề hơn. Làng Sọ, một làng quê thuần Việt, chứng nhân của làng quê và lịch sử đang nín thở chờ cơn bão đến.Thu gọn
-
Thiền sư Vô Úy là bậc chân tu gần gũi với đời, dùng Đạo để cảm hóa đời. Vì có cảm tình với kháng chiến, cụ bị bọn tay sai Pháp bắt lên đồn tra khảo và hành hạ rất tàn nhẫn. Trước sau như một, thiền sư chỉ niệm hồng danh đức Phật, coi đó như liều thuốc tinh thần kỳ diệu để vượt lên khó khăn, vượt qua nghiệp chướng. Rải tâm từ làm sức mạnh cho chính mình, không sân hận, thù ghét với cả những kẻ coi mình là thù nghịch. Chính thái độ ấy của Thiền sư khiến những người Pháp như đại úy Thalan vừa ngạc nhiên, vừa kính nể. Họ không hiểu nổi vì sao một vị sư già, trụ trì ngôi chùa làng đơn sơ ở một xứ sở lạc hậu như An Nam lại có tinh thần nhẫn nại, dẻo dai đến thế, hiền từ đến thế. Thalan không thể hiểu nổi những người như thiền sư Vô Úy cũng như sau này, ông không thể hiểu tại sao người Pháp lại thất bại trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Tư tưởng Từ Bi Hỷ Xả của đạo Phật đã tồn tại hàng nghìn năm ở mảnh đất bé nhỏ và nhiều bão giông này, ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ, nếp cảm của người dân bình dị. Đó chính là góc khuất, là phần chìm của tảng băng góp phần làm nên giá trị riêng của con người Việt Nam.Thu gọn
-
Đại úy Thalan - người luôn mang trong mình niềm tự hào về dòng máu Pháp cao quý, về trách nhiệm cao cả mà ông và các cộng sự đang thực hiện ở xứ Đông Dương. Ông tin người Pháp đang đưa văn minh tới một xứ sở lạc hậu và u tối. Niềm tin ấy rất trong sáng và có phần ngây thơ. Với sự hiểu biết lịch lãm về văn hóa Pháp, với cái nhìn khách quan mới mẻ của một nhà văn trước hiện thực lịch sử, tác giả tiểu thuyết tôn trọng các nhân vật ở tuyến đối lập, nhưng ông cũng chỉ cho họ thấy rằng, chưa thể hiểu, chưa thể chạm vào phần tinh túy trong tâm thức văn hóa Việt - cái đã làm nên sức mạnh của một dân tộc trong trường kỳ lịch sử. Đại úy Thalan vẫn mơ giấc mơ về vị đại tướng năm sao De Lattre, vẫn mang trong lòng nỗi cô đơn cao quý, vẫn đầy hoài nghi và thương hại những người da vàng bé nhỏ. Nhưng rồi ông ta cũng sẽ nhận thấy, chính ông cũng chỉ là nạn nhân của cuộc chiến tranh xâm lược này. Cuộc hành trình của đại úy Thalan và các cộng sự ở vùng đồng quê Bắc Bộ sẽ tiếp diễn như thế nào? Và những bước vận động của hai bên - phía quân đội Việt Minh âm ỉ và mãnh liệt, phía quân đội Pháp đầy tự tin và hiếu thắng - hai bên đều gườm nhau trước giờ nổ súng.Thu gọn
-
Thiền sư Vô Úy bị bắt đưa lên P.C huyện. Nguyệt và sư bác Khoan Độ phải trốn vào rừng cò để trốn tránh sự truy lùng của tay sai quản Mật. Ngôi chùa Sọ chỉ còn lại chú tiểu An. Sợ hãi, buồn rầu, lo âu, tủi thân tủi phận - rất nhiều cảm xúc khiến An luôn nghẹn ngào, đắng đót. Nhưng chính trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy, An lại thấy mình trưởng thành hơn. Những tháng ngày được bao bọc, chở che trong ngôi nhà chùa bé nhỏ này đã giúp An nhận ra bao điều giá trị, bao điều ý nghĩa của cuộc đời. Điều chú băn khoăn nhất là sức khỏe của sư phụ. Trong lần đến thăm sư phụ ở phòng giam P.C huyện, chú tiểu An mới vỡ ra rằng, sư phụ không chỉ bình tâm trước kẻ thù mà vẫn luôn dõi theo từng bước đi của chú, truyền sức mạnh và niềm tin cho chú. Giữa thiền sư Vô Úy và chú tiểu An vừa là tình thầy trò vừa là tình cha con. Nói theo ngôn ngữ nhà Phật thì trong đường đời dằng dặc này, họ sẽ còn tiếp tục trải qua nhiều nghiệp chướng và không ngừng gieo duyên tốt lành cho cuộc đời.Thu gọn
-
Sư cụ Vô Úy và cụ Chánh Long - thân sinh của quản Mật và lý Phường ngoài tình bằng hữu lâu năm còn là tình đồng môn. Cụ Chánh Long từ thuở còn theo học chữ Hán với sư tổ Vô Chấp vốn đã nổi tiếng là người tài hoa, mê thanh sắc, có tới 6 bà vợ đều là những người đàn bà đẹp nhất trong vùng. Rồi sau này, khi chánh Long trở thành người có quyền thế, sư cụ Vô Úy vẫn coi ông là người tử tế, là tri kỷ, trọng nết cư xử có văn hóa của người bạn già. Nhờ mối bằng hữu không bị cắt đứt ấy, sư cụ Vô Úy đã nhờ uy cụ Chánh để cứu người lương thiện thoát khỏi sự bắt bớ của chính những đứa con hung bạo cai trị làng xóm. Những ngày lo hầu hạ thuốc thang cho sư cụ Vô Úy, sau khi cụ ra khỏi nhà tù Đơ Bê (Deuxième Bureau), chú tiểu An đã ngộ ra nhiều điều nhờ những lời chỉ dạy ân cần của sư phụ. Những điều thật giản dị mà đúc kết và tâm niệm suốt một đời chân tu. Cũng từ những ngày tháng tưởng chừng như đau đớn và vô phương này, cuộc đời của sư cụ Vô Úy từ thuở ấu thơ và mối duyên với nhà chùa, với sư tổ Vô Chấp dần được hé lộ. Chiếc chân bị đánh gãy của sư cụ Vô Úy tưởng đã bình phục thì bỗng tình hình xấu đi trông thấy. Cụ yếu đi, không ngủ được, chân sưng húp, chỉ suốt ngày nằm liệt trên giường, tay lần tràng hạt. Sư cụ Vô Úy và chú tiểu An sẽ ra sao trong cơn hoang mang, bấn loạn?Thu gọn
-
Sư cụ Vô Úy với chiếc chân gãy sưng húp còn chú tiểu An thì chỉ biết rơi nước mắt và niệm Phật độ trì cho hai thầy trò qua cơn hoạn nạn. Trong hoàn cảnh thương cảm ấy, may mắn thay, sư bác Khoan Độ đã bí mật trở về chùa Sọ, với ngón nghề gia truyền bó xương gãy, sư Khoan Độ đã chữa khỏi chân cho sư cụ Vô Úy. Sư Khoan Độ từng là bậc danh y đại tài hay chỉ là một ông lang vườn thạo nghề bốc thuốc và vì cớ nào mà ông nương thân cửa Phật? Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã cho chúng ta biết thêm về thân thế ly kỳ của sư bác Khoan Độ, khởi đầu cuộc nhân duyên gặp gỡ với sư cụ Vô Úy. Hóa ra quá khứ của con người tưởng vô sự ấy lại lắm những nghịch cảnh và cũng nhuốm màu sắc yêng hùng. Đặt hai cảnh đời, hai phong thái - nét thong dong đủng đỉnh, thoát trần của sư cụ Vô Úy và quá khứ nghênh ngang nổi loạn của đệ tử Khoan Độ bên cạnh nhau, phải chăng tác giả muốn nhấn mạnh thêm sức cải hóa phi thường của đạo Phật, về sự khoan dung vô lượng của đức Phật, về con đường gian truân để đến với ánh sáng vĩnh hằng của chốn cực lạc.Thu gọn
-
Lật lại những trang đời đầu tiên của vị sư bác luôn kề cận bên cạnh sư cụ Vô Úy - Khoan Độ đã từng là một nghịch tử, đầu trộm đuôi cướp, chối bỏ người cha sau khi bị ông trừng phạt bằng cách cắt gân ở hai gót chân. Rời nhà, sống chui lủi như con thú hoang, tưởng như không ai và không điều gì có thể làm Độ thức tỉnh thì cô Khoai xuất hiện. Cuộc gặp gỡ với cô Khoai - người đàn bà ăn mày ở cầu Si đã cải hóa cuộc đời của Độ. Cuộc đời Độ từ đó giống như một cuốn sách lắt léo, nhẩn nha sang trang mới. Cưu mang người đàn bà ăn mày cũng là cưu mang chính một trang đời mới bắt đầu nhưng đã chìm vào trong bế tắc nghi kị của Độ. Một mối tình dân dã xuất phát từ cầu lạch, ổ rơm, đồi nương mà vẫn rất tình, rất lãng mạn. Dường như ông trời đã sắp đặt để họ gần nhau, nương tựa vào nhau, hoàn thiện và cứu rỗi nhau qua cơn nguy khốn của số phận. Cô Khoai, người đàn bà ăn mày có dung mạo xinh đẹp và ngọt ngào ấy đã dùng quyền lực gì để khuất phục gã đàn ông nghênh ngang với câu cửa miệng "lấy của người giàu chia cho người nghèo" nhằm bào chữa cho hành vi trộm cắp đã thành cố tật. Câu chuyện tình của anh Độ, cô Khoai sẽ tiếp diễn ra sao?Thu gọn
-
Từ một kẻ ngỗ ngược, coi trời bằng vung rồi bất đắc dĩ phải đào tường, khoét vách để cứu lấy cuộc sống trên bờ vực của cô Khoai, Độ đã lột xác thành một người đàn ông thực thụ, chí thú khi làm chồng và sắp làm cha. Từ lấy của người, Độ quay sang sử dụng đôi bàn tay lao động, nết thu vén hay lam hay làm của con nhà nông cùng với vợ là cô Khoai xây dựng cho tổ ấm tình cờ của 2 kẻ tưởng lạc loài trong cuộc đời. Sự tài hoa, khéo léo thạo việc của gã trai bất chấp, ngông ngạo từ đây mới đơm tỏa, mới được phát tiết. Hạnh phúc Độ - Khoai hẳn là niềm mong ước của biết bao đôi vợ chồng thôn quê. Say đắm trong thứ mật ngọt sóng sánh ấy, cả hai đều không biết rằng, nung nấu tham vọng theo đuổi mù quáng ắt sẽ sinh ra bất trắc, tai họa. Ngày anh Độ đeo đôi khuyên tai bằng vàng cho cô Khoai đã vĩnh viễn không đến. Mất vợ, mất con, rồ dại đỉnh điểm, đốt nhà bỏ đi biệt xứ rồi cuộc đời xô đẩy ra sao khiến Độ nương thân nơi cửa Phật, trở thành sư bác Khoan Độ?Thu gọn
-
Rời làng trong nỗi đau đớn tuyệt vọng, không còn gì để mất rồi thắng giải vật tiếng tăm trong hội làng Voi, lại chạm trán và có ơn với băng cướp thuồng luồng, Độ trở thành tướng cướp. Bắt đầu những trận cướp bóc kinh thiên động địa và cũng bắt đầu nghiệp chướng của Độ. Sa cơ, bị thương nặng trong một trận cướp tưởng không thể qua khỏi, thế nhưng nhờ nội lực bên trong, sự cưu mang của sư cụ Vô Úy, nhờ cả vào lòng từ bi của đức Phật, Độ từ cõi chết trở về. Nhận ơn cứu tử, tên tướng cướp nguyện quy y, nương bóng bồ đề, trở thành một Phật tử sùng tín chưa từng thấy. Câu chuyện tái sinh của kẻ đồ tể buông dao trở thành bồ tát ẩn chứa những triết lý sâu xa về sức cảm hóa, chữa lành vô biên của đức Phật. Chẳng thế mà chính Độ đã thừa nhận, thân xác của mình là nhờ có phép lạ của Phật nên còn sống và nguyện mang tấm thân được ơn đền để bảo vệ Phật Pháp. Ngọn lửa thiêu ngón tay cũng là nghi lễ cuối cùng thiêu đi nốt những đau đớn thể xác cũng như dẫn Độ bước những bước chân chính thức đầu tiên đến với cõi Thiền nhẹ nhõm, bỏ lại sau lưng quá khứ dữ dội.Thu gọn
-
Với tiểu thuyết "Đội gạo lên chùa", nhà văn Nguyễn Xuân Khánh muốn chuyển tải tinh thần Phật giáo về cuộc sống, dù bất cứ hoàn cảnh nào, con người sống với nhau cũng phải bằng tình thương yêu bao dung và tha thứ. Về một phương diện nào đó, ở những thời điểm nhất định, có người cho rằng triết lý của đạo Phật không phù hợp với môi trường tranh đấu, dễ tạo sự mơ hồ trong quan hệ thù bạn, địch ta. Tuy nhiên, trong tiểu thuyết này, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã khai thác triết lý này ở mặt tích cực, mặt mạnh của nó. Cuộc sống cho thấy, tình yêu thương đã kéo con người xích lại gần nhau, xóa bỏ hận thù, định kiến và chữa lành cho những tâm hồn bị thương tổn. Trong cuộc nói chuyện giữa sư cụ Vô Úy và thầy giáo Hải, chúng ta một lần nữa hiểu thêm về quan điểm sống này. Mặc dù có nhiều điểm khác biệt trong suy nghĩ, sư cụ Vô Úy vẫn quyết định chọn thầy giáo Hải là con rể của chùa, tránh để xảy ra cảnh một bông hoa đẹp phải đi ở ẩn, không được tô điểm cho cuộc sống trần gian. Liệu mối tình chớm nở giữa Hải và Nguyệt có đi được tới bến bờ hạnh phúc hay chỉ là những khoảnh khắc ngọt ngào hiếm hoi trong cuộc đời của người con gái nhan sắc này? Những diễn biến tiếp theo cũng sẽ hé lộ về hành trình lành ít dữ nhiều của Nguyệt, khi quản Mật đột ngột dẫn lính đến vây ráp chùa Sọ.Thu gọn
-
Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Hải - chồng chưa cưới - đã giúp Nguyệt xóa tan được nghi ngờ về việc anh làm tay sai cho giặc. Chưa kịp cảm nhận hơi ấm về cái ôm đầu tiên của người yêu, Nguyệt đã ngay lập tức chạy trốn vào rừng cò, tránh cuộc vây ráp của quản Mật. Chính ở nơi hầm tối, trong Nguyệt vọng về những ám ảnh, hồi ức đau thương. Nguyệt đã tìm được sự tĩnh tâm khi niệm Phật. Cũng chính trong cuộc vây ráp này, để đảm bảo cho sự an toàn của Hải và tính mạng của Nguyệt, sư Khoan Độ đã buộc phải ra tay hạ thủ cai Thi - tên tay sai đắc lực nhất của quản Mật. May mắn thoát khỏi tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Nguyệt và sư Khoan Độ tiếp tục cuộc hành trình tìm ra vùng du kích. Bất chấp nghịch cảnh và việc Nguyệt có dung mạo rất giống Khoai - người vợ cũ của mình, sư Khoan Độ đã dừng lại ở giới hạn cần thiết để có sự thanh bạch và cư xử với Nguyệt như một người em gái.Thu gọn
-
Nguyệt và sư Khoan Độ đã tới vùng du kích an toàn, tạm thời nương náu ở gia đình ông Trần, bà Nấm. Cuộc gặp gỡ với bà Nấm đã giúp Nguyệt gạt đi những đồn thổi và hiểu thêm về người phụ nữ đã có sức mạnh khiến cho sư thúc Vô Trần rời bỏ đức tin của mình trở về với cõi tục. Dĩ nhiên, đó không phải là một sự từ bỏ hoàn toàn khi Vô Trần và gia đình luôn giữ được lòng hướng thiện. Sự nghiệp cách mạng mà ông đang theo đuổi cũng xuất phát từ lòng yêu thương và đồng cảm với nỗi đau của những người nghèo khổ, từ tình cảm thiết tha với cuộc sống no ấm yên bình. Và mỗi bước đi của vị sư thúc đã rời chùa đó không lúc nào không thấp thoáng bóng dáng của chùa Sọ, nơi đã gieo vào ông hạt mầm của sự Từ Bi Hỷ Xả. Cái tâm từ bi của sư cụ Vô Úy không những đã cải hóa được quân cường đạo mà còn cảm hóa được cả mãnh thú. Câu chuyện về chú hổ trong chốn rừng thiêng Yên Tử được sư cụ Vô Úy nuôi dưỡng từ nhỏ và đặt cho cái tên Khoan Hòa nhuốm màu sắc huyền thoại. Câu chuyện này, chú tiểu An được nghe sư cụ kể lại thật hấp dẫn. Liệu Khoan Hòa có yên ổn sống trong am cỏ với sư phụ Vô Úy không?Thu gọn
-
Nguyệt đã bắt đầu quen với cuộc sống ở vùng du kích. Cô thay bà Nấm làm chân nấu bếp ở cơ quan phụ nữ huyện rồi kiêm nhiệm thêm các công việc khác. Có lúc làm liên lạc, đưa giấy tờ công văn, có lúc làm bảo vệ khi chị bí thư xuống xã. Đó là những nền tảng ban đầu để sau này, Nguyệt trở thành một chiến sỹ cách mạng, hỗ trợ cho người chồng chưa cưới của mình. Còn về phía trung úy Bernard - như chúng ta đã biết, là kết quả của mối tình giữa một người lính thực dân và một cô gái Việt - do đó, trong con người Bernard là sự giằng xé, sự đấu tranh giành ảnh hưởng giữa người mẹ và người cha. Nếu người mẹ thắng, đứa con sẽ đứng về phía ngoại. Nếu người cha giành giật được, đứa con sẽ trở thành kẻ chống lại bầu sữa đã nuôi nấng nó một cách điên cuồng, không từ thủ đoạn nào. Những trang tiếp theo sẽ hé lộ thế giới nội tâm phức tạp của gã Tây lùn Bernard, sự mặc cảm của y, những mảng ký ức về người mẹ mộ đạo và việc y kiên quyết chối từ nguồn gốc máu đỏ da vàng...Thu gọn
-
Bằng bút pháp linh hoạt, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã xây dựng thành công rất nhiều nhân vật trong tiểu thuyết "Đội gạo lên chùa". Trong đó, không chỉ có sư cụ Vô Úy và các đệ tử mà còn có cả các nhân vật ở phía bên kia chiến tuyến như lý trưởng Phượng, quản Mật, đại úy Thalan và đặc biệt là trung úy Tây lai Bernard. Mặc dù là con của một bà mẹ Việt Nam nhưng Bernard luôn tìm cách phủ nhận, tẩy rửa nguồn gốc bản xứ của mình. Người ta không thể tìm thấy ở y - một gã Tây lai tàn độc - dấu vết nào từ tính cách hiền từ của người mẹ, vốn là một Phật tử. Luôn có mặc cảm về dòng máu đặc chủng, Bernard giữ một thái độ thù địch với tất cả những người bản xứ và quyết truy cùng diệt tận quân du kích, coi đó là cách thức để trở thành một người da trắng đích thực. Sống bên cạnh một nhân vật nguy hiểm như vậy, liệu thầy giáo Hải có được bình an? Nhất là khi Bernard đã nghi ngờ anh chính là nội gián của Việt Minh. Câu chuyện về thầy giáo Hải giữa vòng vây của kẻ thù sẽ tiếp tục hấp dẫn chúng ta ở những trang tiếp theo của tiểu thuyết "Đội gạo lên chùa"Thu gọn
-
Việc Hải làm nội gián cho Việt Minh đã bại lộ. Tây lùn Bernard dùng những đòn tra tấn hiểm độc, ép thầy giáo Hải phải khuất phục. Tuy nhiên, trái với mong đợi của Bernard, thầy giáo làng với vẻ ngoài thư sinh trói gà không chặt ấy vẫn giữ im lặng tới phút cuối, quyết giữ một lòng kiên trung với cách mạng, với đất nước. Những ngày bị tra tấn liên miên, chính hình ảnh dịu dàng, thuần khiết của Nguyệt và tiếng của Nguyệt A di đà Phật vang lên trong tâm khảm đã giúp Hải có thêm sức mạnh chống lại những đòn tra tấn dã man của kẻ thù. Sự hy sinh của Hải không phải là vô ích. Cái chết thương tâm của anh đã nhân lên ngọn lửa căm thù trong lòng mỗi người dân nghèo làng Sọ. Trải qua bao năm xuống tóc và cùng chứng kiến, chịu đựng những vất vả đau thương cùng với dân làng, sư Vô Úy nghiệm ra rằng, tất cả những gì làm cho con người bớt đau khổ và sung sướng đều là Đạo. Việc mang trong mình dòng máu yêu nước của người cha đã khiến ông và các đệ tử đứng cùng chiến hào với nhân dân và cách mạng như một tất yếu. Nhưng đạo Phật không cho phép sát sinh. Đứng trước sự lộng hành của cái ác, các bậc tu hành có thể làm ngơ được hay không? Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã tạo ra những tình huống để giải quyết mâu thuẫn này một cách hợp lý. Một trong số đó là tình huống sư Khoan Độ buộc phải ra tay, trừ khử tên Tây lùn Bernard.Thu gọn
-
Sau sự hy sinh anh dũng của thầy giáo Hải, việc trừ khử trung úy Bernard đã được đặt ra rất cấp bách. Tình thế này đã buộc sư Khoan Độ phải hành động. Tuy người trực tiếp xuống tay là Thuồng Luồng nhưng sau sự việc này, sư Khoan Độ có phần trở nên lặng lẽ và đọc kinh sám hối nhiều hơn. Biết được điều đó, sư cụ Vô Úy đã tìm cách hóa giải cho tâm trạng nặng nề của sư Khoan Độ, khi chỉ cho học trò thấy rằng, đứng trước sự lộng hành của cái ác, bậc tu hành không thể vô cảm, càng không thể vô can. Quan điểm này chính là một biểu hiện sinh động về sự kết hợp giữa Đời và Đạo trong Phật giáo ở Việt Nam. Việc sư Khoan Đồ trừ gian diệt bạo cũng đã khép lại một giai đoạn đau thương của cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. Hòa bình đã về trên đất làng Sọ. Những người trước kia ở vùng du kích như bà Nấm, cô Nguyệt cũng dần trở về làng, bắt đầu xây dựng một cuộc sống mới. Liệu hành trình trôi dạt của họ đã kết thúc?Thu gọn
-
Những ngày đầu hòa bình, những người dân làng Sọ đều dồn sức vá lành những vết thương chiến tranh còn lại. Nhưng không phải tất cả mọi người đều chung niềm hân hoan về cuộc sống mới. Người giàu lo lắng sợ sệt, người nghèo phập phồng chờ đợi cái mơ ước ngàn đời "lấy của người giàu chia cho người nghèo" sắp được thực hiện. Những cơn sóng ngầm về một biến cố to lớn sắp xảy ra đã bắt đầu trỗi dậy, tràn vào ngôi làng bé nhỏ. Cuộc sống mới kéo theo nhiều thay đổi. Những chuyện giảm tô, cải cách đã lan tới làng Sọ. Sự xuất hiện của anh đội Khoát và cuộc tố khổ tại đình làng cho thấy sự phức tạp chồng chéo trong mối quan hệ giữa nông dân và địa chủ, giữa người giàu và kẻ nghèo. Nhất là khi bên cạnh những câu chuyện chân thực còn có cả những điều bịa đặt toan tính nhằm trục lợi.Thu gọn
-
Niềm vui hòa bình chưa được bao lâu thì chuyện giảm tô, cải cách đã làm xáo trộn đời sống của những người dân làng Sọ. Mọi chuyện xảy đến quá bất ngờ khiến mọi người chưa thể nào bắt kịp với sự đổi thay. Sự xuất hiện của nhân vật đội Khoát với hiểu biết hạn chế và cuộc đấu tố ở đình làng đã trở thành một biến cố khiến cuộc đời của nhiều người rẽ sang một trang hoàn toàn mới. Tư tưởng giáo điều, sự ích kỷ thực dụng làm không ít người trở nên hèn mọn, thậm chí tàn nhẫn khi không tiếc lời bịa đặt vu khống người khác, kể cả người trong gia đình mình. Những giọt nước mắt của Hiếu rơi tại đình làng khi thấy mẹ tố cáo ông nội hay sự lo lắng của Trắm trước sự hằn học của đội Khoát đối với gia đình ông Trần bà Nấm là những điều dễ khiến người ta xúc động khi chạm tới sai lầm của cuộc cải cách ruộng đất - một giai đoạn lịch sử đau thương mà nhiều người đã muốn quên đi. Diễn biến tiếp theo sẽ ra sao? Số phận của chánh Long sẽ như thế nào?Thu gọn
-
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã có những trang dàn dựng hợp thức về giai đoạn cải cách ruộng đất - thời kỳ mà cái ác là con đẻ đích thực của sự thiếu hiểu biết và giáo điều. Ngòi bút của ông chừng mực trong việc đi vào khắc họa những nhân vật địa chủ, nhân vật đội đồng thời thể hiện được nhận thức còn nhiều hạn chế của người nông dân trước một cuộc cách mạng mới. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã xây dựng một nhân vật khá thành công, đặc biệt là nhân vật chánh Long khi ông duy trì được cái nhìn đa chiều, khẳng định phần tốt đẹp trong một nhóm người mà có một thời người ta cố đẩy về phía kẻ thù. Giờ đây, khi đội Khoát trở thành một ông vua con của làng Sọ, số phận của những người như chánh Long đã được định đoạt. Nhưng còn những người như bà Nấm rồi sẽ ra sao, nhất là khi bà bị tố là trùm Quốc dân đảng.Thu gọn
-
Bị khép vào tội phản động, hại dân hại nước, bà Nấm bị cùm cả hai chân tại nhà, chờ phán quyết. Huệ, con gái bà Nấm thường xuyên khóc lóc trước tình cảnh của mẹ. Tuy nhiên, bà khuyên con nên cứng rắn hơn bởi bà vẫn còn hy vọng được cứu thoát. Bà nhờ Huệ đi tìm 2 thanh sắt để mở khóa cùm. Trong hoàn cảnh này, tìm được 2 thanh sắt theo đúng yêu cầu thật không đơn giản. Theo lời khuyên của mẹ, Huệ đã tìm đến Trắm, cậy nhờ sự giúp đỡ của anh. Trắm không chối từ lời thỉnh cầu của Huệ dù rằng lúc đó anh là tổ trưởng tổ du kích mà bà Nấm lại bị quy kết là kẻ phản động bị bắt giam. Khi đến nhà bà Nấm để đánh lạc hướng 2 du kích đang canh gác, Trắm đã lên giọng đe dọa bà Nấm. Liền sau đó, anh để lại 2 thanh sắt rồi nhanh chóng rời đi trước khi thông báo một tin quan trọng là, nội trong ngày mai, bà Nấm sẽ được chuyển sang một trại giam khác. Ngay tối hôm đó, hai mẹ con bà Nấm đã trốn thoát và tìm đường chạy về thủ đô. Trở lại trong đám bạn chơi với Căn, Trắm, Hiếu thì Rêu là một cô gái xinh đẹp, thông minh luôn khiến người đối diện cảm nhận được sự ấm áp trong sáng. Mỗi lần chú tiểu An bị bạn bè bắt nạt thì bao giờ Rêu cũng là người đứng ra bênh vực. Ở cô gái xinh đẹp này, còn có một điều đặc biệt nữa là rất có duyên với chùa chiền. Khi đến chùa, cô luôn cảm nhận được ở đó sự thơm tho, sạch sẽ. Điều này khiến cho sư thầy Vô Úy rất hài lòng.Thu gọn
-
Từ dạo phát hiện nhà chùa có một mùi thơm lạ, Rêu rất năng lên chùa. Cô ao ước một lần được tắm nước giếng đá ong ở chùa. Đó là thứ nước đặc biệt khiến con người trở nên trong sạch từ trong tới ngoài. Nghe được những lời tâm sự này, chú tiểu An càng chú ý đến Rêu hơn. Trong một đêm trăng đẹp, khi nghe được tiếng hát véo von đầy mê hoặc, chú tiểu An đoán chắc không ai khác chính là Rêu. Chẳng là, Rêu đã tranh thủ lúc sư thầy Vô Úy đi vắng và đoán chắc với tính nhút nhát của chú tiểu An không dám ra ngoài giếng nửa đêm cho nên cô đã quyết định thực hiện niềm ao ước được tắm nước nhà chùa. Lần thứ hai chú tiểu An được nghe Rêu hát chính là dịp làng Sọ mở tiệc ăn mừng hòa bình lập lại ở miền Bắc. Giọng hát của Rêu khiến cho mọi người phải trầm trồ khen ngợi. Đúng như dự đoán, sau này, Rêu trở thành một người nổi tiếng trong đội văn công. Cô đã tranh thủ thời gian cả năm trời cùng đoàn biểu diễn đi tìm cha đẻ, mặc dù cô không có bất cứ một manh mối nào. Rêu khao khát một lần được gặp cha. Đi đâu cô cũng hỏi. Đến ngay cả ông Lẫm, một người đàn ông đánh cá nghèo khổ cũng là đối tượng để cô dò hỏi tung tích cha mình.Thu gọn
-
Sau cuộc gặp ông Lẫm, Rêu vẫn nuôi hy vọng đi tìm người cha mà cô không hề biết tên biết họ. Trong thời điểm đó, làng Sọ tiến hành cải cách ruộng đất khiến Rêu rất lo lắng cho sự nguy an của gia đình mình. Mẹ cô, bà Thắm lấy ông chánh Long làm địa chủ, dù là vợ thứ sáu nhưng chắc chắn bà Thắm khó tránh khỏi liên lụy trong vụ này. Cũng chính vì lý do này mà bà Thắm không muốn Rêu gặp ông Chánh. Tuy nhiên, cô bé đã làm trái ý mẹ. Suốt năm tháng qua, một câu hỏi khiến Rêu và cả ông chánh băn khoăn, liệu rằng ông có phải bố đẻ của Rêu hay không? Để đi tìm câu trả lời rõ ràng, Rêu đã quyết định tìm đến nhà ông chánh. Cô ngỡ ngàng lắm vì đã mấy năm nay, cô chưa một lần về thăm lại nơi này. Xuất hiện trước mặt Rêu là một người đàn ông đã già yếu. Ông hỏi cô nhiều chuyện nhằm khỏa lấp khoảng trống giữa 2 người. Ông chánh muốn Rêu đàn hát cho ông nghe. Sự am hiểu và những lời chỉ bảo của ông chánh về ngón đàn khiến cho cô phải suy nghĩ. Ông chánh nhận sẽ truyền dạy thêm cho Rêu về đàn. Nhưng chỉ đến buổi thứ hai thì bất ngờ, ông đóng cửa khước từ. Lý do là Rêu không cần phải học thêm nữa. Ít ngày sau, Rêu nhận được tin ông chánh bị bắt và sẽ bị xử tử. Trước đó, ông đã kịp gửi cho Rêu một sợi dây chuyền vàng vừa là để biểu lộ tình cảm với cô con gái. Sự kiện đau buồn này tác động rất lớn đến tâm lý của Rêu.Thu gọn
-
Sau cái chết của ông chánh Long, rất nhiều người bị liên đới, trong đó có sư thầy Vô Úy và chú tiểu An. Cả hai bị bắt với lý do liên kết với phần tử bóc lột, phản động. Chú tiểu An luôn ở tâm trạng bất an, mơ thấy những điều không lành khiến sư thầy Vô Úy phải động viên, trấn an tinh thần. Có lẽ là chú tiểu An đã có giác quan thứ sáu về những điều sắp xảy ra. Một đêm, chú nghe thấy tiếng khóc ở vườn chùa nhưng vì bị giam lỏng nên không thể ra đó thăm dò tình hình. Chỉ biết là đã có một mùi thơm rất lạ xuất hiện vào đêm ấy. Sáng hôm sau mới biết Rêu đã tự vẫn tại giếng nhà chùa. Sau khi ông chánh Long bị xử tử, Rêu đã quá đau đớn khi mơ hồ nhận ra đó là cha đẻ của mình. Chưa hết, ngay khi trở về nhà, cô lại phải chứng kiến mẹ mình với anh đội Khoát. Trước nhiều biến cố đau lòng như thế, Rêu đã quyết định tự vẫn. Sư thầy Vô Úy và chú tiểu An ở vào tình thế khá nguy hiểm bởi lẽ đội Khoát muốn ép sư thầy vào tội phản động bằng bất cứ giá nào. Theo sư Khoan Độ thì lúc này sư thầy Vô Úy nên lánh tạm về núi rừng Yên Tử là hay hơn cả. Sư thầy Vô Úy cũng cho rằng đây là một cách hay nhưng không phải lấy việc chạy trốn là lựa chọn tốt nhất. Ông đã quyết định đến gặp đội Khoát để nói chuyện. Trước lý lẽ đầy thuyết phục về Phật giáo, đội Khoát khá lúng túng nhưng vẫn lên giọng răn đe sư thầy phải khai báo thành khẩn mối quan hệ với những thành phần được xếp vào danh sách cần theo dõi.Thu gọn
-
Trở lại chuyện mẹ con bà Nấm trốn thoát sau khi có sự giúp đỡ của anh Trắm. Họ đã phải đi bộ nhiều ngày trong hoàn cảnh đói khát để tới được Hà Nội. Để tránh bị lộ, họ đã không đi theo con đường cái mà men theo đường sông. Đang lúi húi ăn lén mấy bắp ngô trong ruộng ngô ngoài bãi rồi tính chuyện đi tiếp thì mẹ con bà bị một bà lão phát hiện. Cám cảnh mẹ con bà Nấm đang trong cơn hoạn nạn, bà lão cho họ nghỉ ngơi rồi tận tình chỉ đường. Tuy nhiên hành trình về tới Hà Nội lần này thật khó khăn. Với chiếc bè chuối quá đơn sơ, mẹ con bà Nấm khó có thể vượt qua chỗ nước lớn. Số phận mẹ con họ sẽ ra sao? Quay trở lại với cái chết của Rêu, thân phận đầy ngang trái của cô khiến nhiều người cảm thương. Chính vì vậy, hôm chôn cất Rêu, rất nhiều người đủ các thành phần đã đến đưa tiễn. Anh đội Khoát đã đặt ra nhiều nghi vấn về hành động tự tử của Rêu. Vì cô chết ở giếng chùa nên sư thầy Vô Úy là người đầu tiên bị tra hỏi. Người tiếp theo là chú tiểu An. Sự buộc tội này xem ra vô lý vì cả sư thầy lẫn chú tiểu đều bị cùm trong thời điểm Rêu tự vẫn. Điều này cũng đã được 2 anh du kích làm chứng. Nhất là qua lời nói đảm bảo của Trắm. Sự trung thực và tốt bụng của Trắm khiến chú tiểu An vô cùng cảm kích. Tuy nhiên những việc liên quan đến sư thầy Vô Úy và chú tiểu An vẫn chưa dừng lại tại đó. Họ bị đưa lên đoàn ủy giải quyết. Điều gì sẽ xảy ra với 2 thầy trò?Thu gọn
-
Trái ngược với tâm lý bình tĩnh của sư thầy Vô Úy, chú tiểu An lo sợ khi hình dung những ngày tháng ảm đạm trong trại giam. Sư thầy Vô Úy và chú tiểu An bắt đầu bị thẩm vấn. Đầu tiên là vị cán bộ hành chính. Người thứ hai là bí thư Đoàn ủy tên là Chiến. Người cán bộ này đã đưa ra những câu hỏi được xem là khó trả lời đối với sư thầy Vô Úy. Tuy nhiên với cách diễn giải thấu tình đạt lý, sư thầy Vô Úy đã khiến bí thư Chiến phải ngạc nhiên. Ông quyết định để họ cải tạo tại trại giam số 2. Một lần khác ông đã xuống trại giam nói chuyện với hai thầy trò. Lạ là ông không hề nhắc tới hai chữ Phạm tội mà nhắc nhở hai thầy trò phải cố gắng lao động thật chăm chỉ. Chú tiểu An thắc mắc hỏi sư thầy về thái độ nhã nhặn của ông bí thư dành cho họ. Sư thầy nhắc lại câu chuyện đã cứu ông bí thư từng bị ốm khá nặng ở am tỉnh mình. Cũng nhờ cuộc gặp gỡ ấy mà hai người đã hiểu nhau hơn.Thu gọn
-
Sư thầy Vô Úy ngày một gầy yếu và mắc nhiều chứng bệnh. Mặc dù đã được anh Trầm tìm cách chăm lo nhưng sức khỏe của sư thầy vẫn không khá hơn. Trong thời gian này, tin vui nhất là chính phủ đã ra sắc lệnh sửa sai đồng nghĩa với việc những người như sư thầy Vô Úy, chú tiểu An sẽ được trả tự do. Nhưng liệu sư thầy có qua được cơn bạo bệnh này để trở về với cuộc sống hay không? Anh Trầm đã đánh liều, thử tẩm bổ cho sư thầy bằng nước thịt. Kỳ diệu thay, thân thể bấy lâu suy nhược trầm trọng của sư thầy đã bình phục nhờ sự chăm sóc ấy. Sau đó, hai thầy trò cùng trở lại chùa Sọ. Thời gian thấm thoắt trôi, đã đến ngày giỗ sư tổ Vô Chấp. Những gia đình nào từng cậy nhờ cửa Phật để vượt qua được những lúc gian truân đều không quên ngày giỗ này. Gia đình chị Thì anh Lẫm cùng các con là Hiếu và Trắm chuẩn bị đồ lễ để đến thắp hương nhà chùa ngay từ sáng sớm. Trong ngày giỗ này, còn có một sự xuất hiện bất ngờ nữa của Huệ, con gái bà Nấm. Huệ đã may mắn thoát chết trong sự cố chìm bè trước kia, tìm được cha và hiện là một chính ủy trung đoàn. Ông đã sai Huệ về thắp nhang cho sư tổ nhân ngày giỗ. Về thăm chùa lần này, Huệ rất quan tâm đến cuộc sống của chú tiểu An giờ đã là sư thầy An. Suốt 10 năm trời đằng đẵng, cô đã không có thông tin về người bạn của mình.Thu gọn
-
Ngày giỗ sư tổ tại chùa Sọ diễn ra trong không khí ấm cúng thân tình, nhất là lại có sự xuất hiện của Huệ, giờ đã là một cô sinh viên trường Y xinh xắn ngoan hiền. Giữa lúc mọi người đang nói chuyện thì anh Trắm đến thông báo một tin quan trọng. Anh và sư thầy An sẽ nhập ngũ, tham gia nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Sau khi được nghe những thông tin từ Đảng ủy về đợt đi nghĩa vụ quân sự lần này, tâm trạng An có nhiều nỗi băn khoăn khó tả. Từ ngày gắn bó với chùa Sọ, chưa bao giờ anh di dời khỏi nơi này quá lâu. Anh lo cho sư bác, sư thầy và cả chị Nguyệt khi không có anh, ai sẽ là người đỡ đần. Hiểu tâm trạng của An, Huệ đã động viên rất nhiều. Trước ngày An lên đường, chị Nguyệt đã chuẩn bị mọi thứ chu đáo và động viên em an tâm lên đường nhập ngũ.Thu gọn
-
Trước đêm lên đường nhập ngũ, sư cụ đã răn dạy An những điều hay lẽ phải khi trở thành một người lính thực sự. Để An không bị xúc động, ngày chia tay, sư cụ và chị Nguyệt đã không đi tiễn. Chỉ có sư bác Khoan Độ đưa anh lên tận sân đình rồi mới ra về. Từ một sư thầy trở thành một người lính, An đã cố gắng rất nhiều để hòa nhập với đơn vị và các đồng đội của mình. Trong đội, An thân nhất với Tiến và Cường. Cả hai chàng lính trẻ này đều có vướng mắc về thành phần lý lịch. Trong thời gian họ đóng quân ở nhà dân, có rất nhiều những điều đáng nhớ. Đáng kể nhất là một vở kịch về mâu thuẫn địa chủ, nông dân được diễn trong một đêm lửa trại. Dân làng chẳng mấy khi được xem văn công nên kéo đến xem rất đông. Tiến có tham gia vào vở diễn này, tuy nhiên vở kịch chưa kết thúc thì đã yêu cầu phải cắt giữa chừng vì một lý do nội dung lẫn diễn viên chưa đạt yêu cầu.Thu gọn
-
Vào quân đội, dù trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn nhưng An luôn là một người lính hoàn thành tốt nhiệm vụ, có sức khỏe dẻo dai nhất trong nhóm bạn. Tổ của anh luôn ở vị trí xuất sắc nhất đại đội. Tiếng lành đồn xa, đến đồng chí chính ủy - trung tá trung đoàn cấp trên cũng hỏi Trắm về những thành tích xuất sắc của tổ An đang làm nhiệm vụ. Ông đã phân tích cho Trắm về vở kịch được diễn trong đêm lửa trại cho đông đảo quần chúng nhân dân xem. Ở đây sự trải nghiệm của đồng chí chính ủy đã giúp Trắm hiểu ra nhiều điều. Giờ thì Trắm đã có thể dõng dạc tuyên bố trước tất cả các đồng chí của mình là không ai sai trong vở kịch vừa rồi. Tiến tham gia đóng vai địa chủ cũng như vậy. Thêm nữa, Tiến còn được khen thưởng vì đã có sáng kiến giúp cho đơn vị hành quân qua vùng lầy một cách an toàn. Với thành tích xuất sắc, tổ của An Tiến được thưởng 2 ngày phép. Đây đúng là một tin vui. Vì ngày phép quá ngắn, không đủ để về thăm chùa Sọ và lại biết tin sư thầy, sư bác và chị Nguyệt vẫn khỏe, An quyết định dành thời gian đến thăm Huệ. Cô đã viết cho anh vài lá thư kể từ ngày anh nhập ngũ. Lời lẽ trong thư rất ân cần, chu đáo và thường nhắc lại kỷ niệm đã có giữa hai người. Cuộc gặp giữa họ sẽ diễn ra như thế nào?Thu gọn
-
An và Tiến đã được cấp trên cho nghỉ phép 2 ngày. Tiến tranh thủ về quê thăm gia đình. Chính trị viên thông cảm và thương tình đã cho anh mượn chiếc xe phượng hoàng nam. Từ đơn vị về tới nhà, nếu đạp nhanh thì cũng gần hết một ngày trời. Một ngày về và một ngày đi là hết phép. Tính ra Tiến chỉ có thể ở nhà một đêm với vợ. Một đêm đó chắc chắn sẽ là một đêm đáng nhớ trong cuộc đời. Anh mỉm cười, hình bóng của Mai luôn hiện lên trong đầu anh khiến vòng quay của bánh xe càng nhanh hơn. Còn An, sau những lời gợi ý của các anh em trong đơn vị, anh quyết định vượt qua 35 cây số để đến trường Y tế gặp Huệ. Khỏi phải nói, Huệ đã vui mừng như thế nào khi gặp lại An. Họ như đôi chim khuyên lâu ngày gặp lại nên cứ quấn quýt vào nhau. Họ tâm sự, trò chuyện cùng nhau ngắm hoàng hôn trên đồi thông vắng tiếng phản lực vần vũ. Trong đêm thâu, hai người cùng ngồi im lặng để cảm nhận bản hòa tấu của côn trùng cho đến khi trời sáng. Lúc chia tay, An chỉ dám nắm lấy hai bàn tay Huệ. Còn cô thì mạnh dạn kiễng chân, hôn vào má An.Thu gọn
-
Khi Tiến về đến nhà thì trời đã tối hẳn. Chỉ có bà Tư mẹ anh ở nhà. Còn Mai vợ anh thì đi chợ chưa về. Trong bữa cơm tối, bà Tư đã kể lại cho Tiến nghe sự việc Mai bị ngã sảy thai. Hai ngày trời Mai không ăn không uống, cứ nằm ì trong buồng. Bà Tư lo lắng, dỗ dành thế nào chị cũng không ăn. Đến ngày thứ ba thì Mai ngồi dậy, búi tóc lên, ăn uống và lại đi chợ. Bà Tư cũng không hiểu nguyên do nhưng khi thấy con dâu bớt suy nghĩ thì bà cũng phần nào an lòng. Phải đến gần 12 giờ đêm Mai mới về. Khi vừa trông thấy Tiến, chị đã lao ngay vào anh. Chị nhớ anh, nhớ mùi mồ hôi của chồng. Sau khi đã nằm trọn trong vòng tay ấm áp của Tiến thì Mai mới thủ thỉ rằng, chị đã nằm mơ thấy con về báo mộng rằng, bố mẹ cứ yên tâm, lần đầu có thai, sau con sẽ vẫn tìm về với bố mẹ. Tiến nửa tin nửa ngờ về giấc mộng ấy. Nhưng nỗi khát khao cháy bỏng của vợ mong muốn có một đứa con thì anh hoàn toàn hiểu được. Chính vì vậy mà lần về phép này, Mai nhất định bắt Tiến phải cho mình một đứa con.Thu gọn
-
Những ngày sống ở chiến trường, An luôn nghĩ về số phận. Chính anh cũng không ngờ rằng, mình bây giờ đã trở thành một người lính. Trong con người An luôn có hai luồng suy nghĩ trái ngược nhau. Một bên là tư tưởng của một người tu hành, lấy đức từ bi làm căn bản. An thương xót đến cả sinh mạng của con sâu cái kiến. Còn một bên là hiện tại, tức một người lính. Mà đã là lính thì phải làm tròn nhiệm vụ. Nhiều lần An nghĩ tới sư thúc Vô Trần. Ông trước kia cũng là một nhà sư, nay thì ông cũng trở thành một vị chỉ huy xuất quỷ nhập thần. Còn An hiện tại, anh là một người lính nhưng tư tưởng thì vẫn là một người tu hành. Chính vì vậy, anh không dám xả súng vào quân thù mà lại bắn chỉ thiên. Hành động đó khiến anh em trong đơn vị cho rằng, An chưa giác ngộ cách mạng hoặc lý lịch không rõ ràng. Trong cuộc họp, trường hợp của An đã được lãnh đạo phân tích rất nhiều.Thu gọn
-
Sự việc đồng chí An hai lần bắn chỉ thiên đã được anh em trong đơn vị thông cảm. Sau sự việc đó, An không còn là người lính ở tuyến đầu nữa mà được chuyển về làm anh nuôi. Trong khi ấy, ở địa phương, nhân dân làng Sọ đang hưởng ứng phong trào mới, đó là hợp tác hóa nông nghiệp. Tất cả ruộng nương, trâu bò của nông dân đều phải tập trung lại để hợp tác xã quản lý. Mọi người trong độ tuổi lao động đều phải làm theo sự phân công của cán bộ hợp tác xã. Mỗi công lao động sẽ được hưởng 5 kg thóc. Điều đó đã làm ảnh hưởng tới những người ở chùa Sọ. Đó là sư cụ Vô Úy, sư Khoan Độ và vãi Nguyệt. Bởi đi làm thì phải theo kẻng, theo giờ. Mà những người ở chùa thì phải làm phận sự. Chính vì vậy mà sư cụ Vô Úy đã tới gặp bà Thêu, phó chủ tịch xã, xin cắt 2 sào ruộng cho nhà chùa để tùy nghi lúc lao động ngày, lúc ban đêm. Bao nhiêu hoa lợi, nhà chùa sẽ giao nộp hợp tác xã, chỉ lấy phần mình chấm công. Tuy nhiên, bà Thêu đã đưa ra lá đơn có chữ ký của sư cụ tự nguyện đưa toàn bộ ruộng của nhà chùa vào tập thể. Vậy sao bây giờ, nhà chùa lại xin cắt ra? Phó chủ tịch Thêu cho rằng, việc cắt ra ấy là phá hợp tác xã, là quay lại con đường tư hữu, là phần tử chống lại đường lối. Với kết luận ấy của bà Thêu thì nhà chùa sẽ phải làm thế nào để cân bằng giữa việc đạo và việc đời?Thu gọn
-
Việc bà Thêu không đồng ý cắt 2 sào ruộng lại cho nhà chùa đã không nhận được sự đồng tình của chủ nhiệm hợp tác xã Hiếu. Hiếu là bạn cũ của Rêu, con gái bà. Nhưng bây giờ Rêu không còn nữa. Ngày trước Rêu chơi thân với Hiếu, An, Trắm và Huệ. An, Trắm và Huệ thì đã vào chiến trường, chỉ còn Hiếu là ở lại làng. Hiếu làm công tác Đoàn xã lanh lợi. Nhờ có người nhà làm trưởng ty nông nghiệp trên tỉnh cùng với sự ủng hộ nhiệt tình của phó chủ tịch xã, bà Thêu, người mà theo vai vế thì Hiếu gọi là bà trẻ mà Hiếu nhận chức chủ nhiệm hợp tác xã thôn kiêm bí thư chi bộ. Bà Thêu được phân công theo dõi, kiểm tra, đôn đốc giúp hợp tác xã thôn Ngọ. Chính vì vậy mà bà Thêu và Hiếu gắn bó với nhau lắm. Hiếu đã phân tích, lý giải cho bà Thêu hiểu rằng, bên cạnh việc nguyên tắc thì cũng phải có cơ chế linh động. Chính vì vậy mà chị đã đề nghị ban quản lý thôn Sọ bớt ra ít sào rồi phân đều cho các đoàn thể như hội khuyến học, hội phụ lão, hội thơ, Đoàn thanh niên và cả nhà chùa. Bởi Hiếu cho rằng, muốn hợp tác xã phát triển thì tất cả các đoàn thể trong thôn phải hoạt động sôi nổi, tức là phải gây quỹ cho họ. Mà muốn có quỹ thì phải có ruộng, có hoa lợi để duy trì phong trào.Thu gọn
-
Ở làng Sọ, có hai gia đình luôn bị mọi người nhòm ngó. Trường hợp thứ nhất là gia đình bà Thẩm. Bà có chồng là ông Khố. Suốt ngày ông ấy bì bõm ngoài đồng như con rái cá. Đêm thì nằm trên những chiếc màn cao để ngủ. Bà Thẩm suốt ngày trò chuyện với người cõi âm. Còn trường hợp thứ hai là bố con ông Xuân. Người dân chỉ biết rằng ông lưu lạc đến làng Sọ cùng với đứa con trai đỏ hỏn trên tay, tức Hạ. Thương cảnh bần hàn, ông trưởng bạ Hiệp đã cưu mang hai bố con ông. Hạ thì hàng ngày đi chăn trâu. 15 tuổi, nó đã cao lớn như thanh niên 18, sức khỏe dư thừa. Chính vì vậy mà Hạ và Xim, bạn cùng chăn trâu đã có những ngày tháng yêu thương trên đồi hoang lộng gió. Khi Xim có thai gần 4 tháng thì Hạ và ông Xuân mới biết. Cả hai đều vô cùng sợ hãi vì sợ làng phạt vạ. Một lần nữa, gia đình trưởng bạ Hiệp lại ra tay cứu giúp. Họ đồng ý nhận đôi trẻ làm con nuôi và tác thành cho chúng. Vài tháng sau, Xim đẻ con gái, đặt tên là Mua. Mẹ Xim, con Mua - thứ cây cỏ dại ngoài đồi hoang mà gia đình trưởng bạ đón về với mong muốn chúng sẽ thành những người đầy tớ tâm phúc của gia đình. Tuy nhiên ý định ấy của gia đình trưởng bạ lại không được như mong muốn. Ngày gia đình ông bị đấu tố ở đầu thôn, chính Xim - vợ Hạ lại là người tố gia đình ông nhiều nhất. Còn Hạ và ông Xuân thì cho rằng, gia đình ông Hiệp luôn là ân nhân của hai bố con họ.Thu gọn
-
Cô Xim đã tố gia đình ông trưởng bạ Hiệp. Chính vì vậy mà Hạ đã đuổi Xim ra khỏi nhà rồi châm lửa đốt căn lều do gia đình trưởng bạ dựng cho. Hành động ấy của Hạ đã bị chính quyền quy kết anh là một phần tử phản động nên họ lập tức đưa anh vào trại cải tạo. Xim ở nhà được nhiều đàn ông săn đón, trong đó có Tư Đờn ở miền Nam tập kết. Xim với Tư Đờn sống với nhau không giấy tờ hôn thú nhưng gia đình họ sống hòa thuận, không điều tiếng gì. Hơn 10 năm tù ngục, Hạ trở về làng Sọ. Anh thấy Xim đã yên bề gia thất với Tư Đờn. Vả lại Tư Đờn cũng rất mực thương yêu hai vợ con họ nên Hạ cũng yên lòng. Anh thực sự cầu mong cho 2 mẹ con có được cuộc sống bình an. Ngược lại thì Xim cũng gợi ý để anh đi bước nữa với Nguyệt nhưng Hạ thấy mình không xứng đáng.Thu gọn
-
Các đồng chí ở đơn vị đã thông cảm với An khi hai lần anh bắn chỉ thiên. Tuy nhiên An vẫn phải trực tiếp lên gặp chính ủy sư đoàn để trình bày về sự việc này. Theo lời anh em thì chính ủy chính là sư thúc Vô Trần. Trong thâm tâm, anh rất ngại phải đối diện với chính ủy Trần. Anh sẽ phải ăn nói ra sao khi đối mặt với ông. Cuộc gặp giữa An và chính ủy Trần diễn ra không như ban đầu anh tưởng tượng. Ông Trần đã rất cởi mở khi nói chuyện với An. Ông phân tích, giảng giải cho An hiểu, vì sao ông lại giác ngộ cách mạng khi đang tu hành ở chùa Sọ. Lúc còn trẻ, ông theo đạo Phật bởi vì đạo Phật nói đến nỗi khổ của kiếp người và tìm cách giải quyết nỗi khổ ấy. Nhưng đất nước đang thời kỳ chiến tranh, nhân dân phải đứng lên làm cách mạng để thay đổi cuộc đời. Chính điều này đã thôi thúc, dẫn dắt ông một lòng đi theo cách mạng. Sư thúc Vô Trần, tức chính ủy Trần đã làm trọn vẹn cả phần Đạo và Đời một cách viên mãn. Còn An, anh sẽ phải đấu tranh rất nhiều để hoàn thành sứ mệnh được giao,Thu gọn
-
An đã lên gặp chính ủy Trần. Lời khuyên của chính ủy Trần khiến An hiểu rõ hơn bây giờ anh sẽ phải làm gì. Và nếu theo lý giải của sư thúc Vô Trần, sư cụ Vô Úy thì đây chính là cái nghiệp mà anh phải trả. Muốn trốn chạy cũng không được. Thậm chí, An còn phải cảm ơn sự khổ cực mà mình đã trải qua. Bởi qua đó, An sẽ hiểu được nỗi đau khổ của thế gian, hiểu được ý nghĩa của cuộc sinh tử trong kiếp người. Trong khi ấy ở làng Sọ, sau 10 năm đi cải tạo về, Xim - vợ anh đã yên bề gia thất và có cuộc sống ổn định nên Hạ cũng phần nào yên tâm. Anh trở về căn nhà cũ, làm nghề sửa chữa xe đạp kiếm sống. Tình cờ Hạ gặp Hùng, một tay buôn đồ cổ khét tiếng. Nhờ sự dắt mối của Hùng mà Hạ đã có được cuộc sống khấm khá nhờ vào buôn bán đồ cổ. Cuộc làm ăn đang thuận buồm xuôi gió thì bất ngờ Hùng có ý gợi nhắc Hạ về những pho tượng cổ trong chùa Sọ. Nhắc tới chùa Sọ thì Hạ không bao giờ và anh cũng không bao giờ cho phép bất cứ ai được động đến đồ thờ cúng của chùa, kể cả Hùng. Chính vì vậy mà Hùng đã thuê giang hồ dằn mặt Hạ vì anh đã không hợp tác. Tuy nhiên, trong cái rủi lại có cái may. Chính lần bị đánh thừa sống thiếu chết ấy khiến Hạ gặp được Nguyệt. Anh đã được sư cụ Vô Úy đồng ý để Hạ và Nguyệt nên duyên vợ chồng.Thu gọn
-
Vào chiến trường An luôn cảm thấy thật kỳ lạ khi anh luôn được một lực lượng siêu nhiên nào đó bảo vệ, che chở hòn tên mũi đạn. Trong khi ấy, Tiến, Trắm, Lâm thì đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường. Chính ủy - trung tá Trần thì trải qua hai cuộc kháng chiến, trải qua trăm trận chiến đấu lớn nhỏ bị thương 3 lần vẫn không hề hấn gì. Vậy mà hòa bình được 1 năm thì ông phát hiện có 1 khối u trong lồng ngực. Bệnh viện chẩn đoán là khối u đã di căn khắp nơi, được hơn 1 năm thì ông mất. Huệ bị thương, cụt mất 1 chân. Hiện tại cô đang sống cùng bố mẹ nuôi tại xóm bãi ven sông Hồng. An đã về, tìm gặp lại Huệ trong niềm vui mừng khôn xiết của hai người. Và theo ý nguyện của An, thủ trưởng đơn vị đã đồng ý giao cho An và Huệ 2 quả đồi để làm kinh tế. An và Huệ, Hạ và Nguyệt có tìm thấy hạnh phúc, sự bình yên trên mảnh đất quê hương không? Những trang cuối của tiểu thuyết sẽ cùng chúng ta trả lời những câu hỏi này.Thu gọn